Thơ viết về chiến thắng Điện Biên Phủ: Nối dài âm hưởng bản hợp xướng anh hùng ca
Bảy mươi năm qua, thơ về sự kiện Đại thắng Điện Biên Phủ có nhiều bài, được công bố trên báo, tạp chí, sách liên tiếp vào các năm 1954, 1955, 1956… sau đó được in chụm vào những dịp kỷ niệm năm chẵn: 1964, 1974, 1984, 1994, 2004, 2014 và năm nay bảy mươi năm - 2024.
Bài viết này căn cứ vào hai quyển sách tuyển thơ: “Bài ca Điện Biên” (nhiều tác giả, Trần Bảo Hưng biên soạn và giới thiệu, Hội Văn nghệ Lai Châu, 1984); “Trời Điện Biên mây trắng” (soạn giả Gia Dũng, Nxb Văn học, 2014). Quyển 1 ra đời sau mốc 1954 đã ba mươi năm, nhưng tác giả đã công bố lại được gần như đầy đủ những tác phẩm nổi trội nhất, đậm tính thời sự. Một số vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhiều nhà thơ danh tiếng góp bài. Đó là: Chủ tịch Hồ Chí Minh, Sóng Hồng (tức đồng chí Trường Chinh) cùng những tên tuổi khác: Tố Hữu, Vân Đài, Vũ Cao, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Xuân Sanh, Tế Hanh, Thanh Tịnh, Nông Quốc Chấn, Chính Hữu, Trinh Đường, Phạm Hổ, Yến Lan, Bằng Việt, Nguyễn Đức Mậu… Quyển 2 có thêm bài đáng chú ý của các nhà thơ: Nguyễn Hải Trừng (với bài “Nói với khẩu pháo 105 của giặc trên cánh đồng Mường Thanh”), Xuân Quỳnh, Vương Trọng (với bài “Trang nhật ký cuối cùng của Pirốt”), Nguyễn Quang Hà (với bài “Tổ quốc”), Thế Mạc, Lê Thành Nghị, Anh Ngọc, Nguyễn Hữu Quý…
Nếu quyển 1 với 66 bài của 55 tác giả đều chụm vào sự kiện chiến thắng Điện Biên Phủ thì quyển 2 tuy khá dày nhưng lại chỉ có 45 bài của 43 tác giả viết sát vào đề tài đang bàn đến, trong khi sách có 236 bài của 109 tác giả. Lý do là sách này thuộc hệ thống sách tuyển thơ của soạn giả Gia Dũng viết về các miền quê hương đất nước, ở đây là thơ chung về Tây Bắc, mà Điện Biên Phủ trong chiến tranh là một nội dung. Tuy vậy, nếu được soạn xếp để tách phần Đại thắng Điện Biên Phủ ra thành một quyển riêng, thì nó lại trở thành một quyển khác (sách trong sách) dày dặn và có giá trị.
Có thể lọc ra ở cả hai quyển thơ những bài hay nhất kết thành một chùm tác phẩm đĩnh đạc. Trước tiên là ba bài của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài “Quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ” như một phóng sự thơ mô tả trận thắng của quân - dân ta, thuộc số những bài thơ được viết sớm nhất: 12/5/1954. Bài thứ hai và thứ ba do Lữ Huy Nguyên sưu tầm (không có ở quyển 2). Trong đó, bài “Na - va chinh phụ ngâm” (chủ ý chinh phu, không phải chinh phụ) viết theo giọng thơ của Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm, đậm tính giễu nhại - trào lộng nhằm vào kẻ xâm lược. “Thuở trời đất nổi cơn gió bụi/ Khiến Na-va nhiều nỗi chuân chuyên/ Thua to ở trận Điện Biên/ Vì ai kế hoạch mà nên nỗi này!/ Cút về Tây tấm lòng xấu hổ/ Xấu hổ này biết đổ ai đây?/ Bước chân lên chiếc tàu bay/ Bước đi một bước giây giây lại dừng”.
Sau ba bài thơ của lãnh tụ Hồ Chí Minh, thì “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” là tác phẩm thơ ra đời sớm nhất (ghi chú dưới bài tháng 5/1954) vừa có tính thời sự “Tin về nửa đêm/ Hỏa tốc, hỏa tốc/ Ngựa bay lên dốc/ Đuốc chạy sáng rừng/ Loa kêu từng cửa/ Làng bản đỏ đèn đỏ lửa” vừa có tính nghệ thuật rất đặc sắc. Nói không ngoa rằng, khi ấy và nhiều năm sau, hầu như toàn dân ta yêu thích - thậm chí thuộc lòng - bài thơ này. Đây là một trường ca rút gọn, giàu cảm xúc, đậm chất anh hùng ca: “Kháng chiến ba ngàn ngày/ Không đêm nào vui bằng đêm nay/ Đêm lịch sử, Điện Biên sáng rực/ Trên đất nước như huân chương trên ngực/ Dân tộc ta, dân tộc anh hùng!/ Điện Biên vời vợi nghìn trùng/ Mà lòng bốn biển nhịp cùng lòng ta”. Tác giả sung sướng bao nhiêu thì người đọc cũng sung sướng bấy nhiêu. Những câu thơ ngợi ca chiến sĩ, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến mãi mãi vang vọng trong tâm khảm già trẻ, gái trai trải qua các thế hệ: “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên/ Chiến sĩ anh hùng/ Đầu nung lửa sắt/ Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt/ Máu trộn bùn non/ Gan không núng, chí không mòn! […] Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ/ Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát/ Dù bom đạn, xương tan thịt nát/ Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh […] Máu của anh chị, của chúng ta không uổng/ Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam/ Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam/ Hoa mơ lại trắng/ Vườn cam lại vàng”. Đây là tác phẩm thơ tổng hợp, tích hợp nhiều ý nghĩa cao đẹp: mô tả trận đánh, ca ngợi sự kiện Đại thắng, sẻ san niềm vui sâu sắc cùng đại gia đình dân tộc Việt Nam, ca ngợi quân và dân ta, tưởng nhớ, tri ân thương binh - liệt sĩ…
Chính Hữu nổi tiếng không phải ở số lượng tác phẩm mà do có nhiều bài thơ còn lại mãi mãi với thời gian, như “Ngọn đèn đứng gác”, “Lá ngụy trang” và riêng ở đây là “Giá từng thước đất”. Những câu thơ từng bám chặt vào tâm khảm chúng ta: “Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo giội/ Ta mới hiểu thế nào là đồng đội (…) Đồng đội ta/ Chia khắp anh em một mẩu tin nhà;/ Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp/ Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.
Khi bạn ta
lấy thân mình
đo bước
Chiến hào đi
Ta mới hiểu
giá từng thước đất”
Khi bàn tiếp về những bài thơ thời sự tiếp cận sự kiện Đại thắng Điện Biên Phủ, sẽ không thể không đọc “Tiếng búa mở đường vào Điện Biên” của Thi Nhị nói về đồng chí Nguyễn Phú Lý, bộ đội công binh đã quai liền một hơi 972 nhát búa để phá đá mở đường khẩn trương cho pháo vào trận địa. Thêm nữa, “Anh bạn đòn gánh” của nhà thơ dân tộc Thái Lò Văn Cậy (do Mạc Phi dịch) là một bài thơ lạ. Trong chiến dịch đầy khó khăn, gian khổ, “Dẻo dai anh đòn gánh” đã giúp rất nhiều cho con người. Rồi không thể quên “Người đan võng” đáng yêu biết mấy khi Xuân Thiêm viết về người chiến sĩ này từ năm 1955. Giữa các đợt tiến công, anh đan võng dù cho con. Xúc động quá khi chúng ta đọc những dòng thơ: “Võng dù gửi đi rồi/ Tình anh về xóm nhỏ/ Anh xách súng mỉm cười/ Lại đi vào khói lửa// Ở một thôn nho nhỏ/ Ngày phượng đỏ mái đình/ Có một em hớn hở/ Đu võng bổng trời xanh// Nhưng người đan võng ấy/ Chưa gặp con một lần/ Phong thư nhòe nước suối/ Võng ru hoài vang ngân”. Người chiến sĩ ấy không bao giờ được trở về với gia đình. Đây là bài thơ để đời của nhà thơ Xuân Thiêm.
Tiếp tục, “Trang nhật ký cuối cùng của Pirốt” của Vương Trọng và “Nói với khẩu pháo 105 của giặc trên cánh đồng Mường Thanh” của Nguyễn Hải Trừng là hai bài thơ độc đáo. Nếu cùng “nói thay” đối phương, khi Vương Trọng đề cập Trung tá, chỉ huy trưởng pháo binh Pháp tự sát bi thảm vào ngày 15/3/1954, thì Nguyễn Hải Trừng vẽ bức tranh chiếc khẩu pháo của giặc hoen gỉ nằm lại thảm hại trên chiến trường, với cách nói gọi mày theo biện pháp nhân hóa vật vô tri - tác giả từ tầm cao nhìn xuống như nhìn một thân phận xấu số, thấp hèn.
Ba bài thơ mang tính chiêm nghiệm khái quát về một sự kiện lịch sử lớn, đó là “Em hãy đến cánh đồng Mường Thanh” của Bằng Việt, “Tổ quốc” của Nguyễn Quang Hà và “Hò dô ta nào” của Vũ Quần Phương. Dùng câu trùng điệp “Em hãy đến cánh đồng Mường Thanh” làm nhan đề bài thơ và cấu trúc tứ thơ, Bằng Việt đã khuyên nhân vật em (cùng mọi người) hãy đến nơi mà hai mươi năm trước đã xảy ra sự kiện đại thắng Điện Biên Phủ, để tự hỏi và trả lời “Mình phải gắng thêm gì?“. Đấy là một bài thơ có chiều sâu về tư tưởng mang tầm thời đại. Đọc Nguyễn Quang Hà chúng ta thấy ông dựng lại một cảnh cảm động: người mẹ trước đây đưa đứa con thơ dại lên Điện Biên tìm chồng thì nay bà trở lại chiến trường xưa, cùng đi với đứa con đã là vị tướng, quỳ xuống trước nấm mộ vô danh khi cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước đang gần đến kết thúc đại thắng. Đối với Vũ Quần Phương, ông lại dùng câu cảm thán “Hò dô ta nào” đậm sắc thái dân gian làm nhan đề bài thơ nhằm triển khai tứ thơ mới theo hướng thi pháp hiện đại. Nhà thơ gợi mở nhiều suy ngẫm sâu xa: “Hò dô ta nào!/ Cái dây tời các anh choãi chân đứng kéo/ Bây giờ vẫn căng […] Hò dô ta nào!/ Tiếng hô trận mạc/ Ba mươi năm vẫn cứ hằng ngày”.
Thơ ca về sự kiện Đại thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đã đóng góp thêm thành tựu vào đề tài chiến tranh cách mạng, để lại ánh hào quang lâu dài. Lại nhớ, năm 1972, sự kiện đại thắng ấy đã làm nên biểu tượng mới “Điện Biên Phủ trên không” do quân và dân ta đánh tan máy bay B52 trên bầu trời Thủ đô Hà Nội. Sự kiện đại thắng này thêm một lần nữa cho ra đời nhiều áng văn chương, nối dài thêm âm hưởng của bản hợp xướng anh hùng ca vĩ đại năm xưa./.