Lý luận - phê bình

Văn học Việt Nam đương đại - những tác động và chuyển đổi tích cực

Nhà LLPB Nguyễn Bích Thu 09/04/2024 07:45

Trong bối cảnh đổi mới và hội nhập, văn học và các loại hình nghệ thuật khác đang đối mặt với những thách thức của quá trình sáng tạo và tiếp nhận. Làm sao để công chúng Việt Nam không lãng quên văn hóa đọc, văn hóa thưởng thức và cảm thụ các bộ môn nghệ thuật như sân khấu, điện ảnh, múa, ca nhạc, hội họa… trước sự “bành trướng” của loại hình nghe nhìn, sự “cám dỗ” của điện thoại thông minh cùng các thiết bị điện tử và internet? Đối mặt với những thách thức ấy, các chủ thể sáng tạo đã nỗ lực như thế nào để đưa văn học nghệ thuật trở về với độc giả, khán giả trong đời sống hôm nay? Đó cũng là những vấn đề mà không ít người trăn trở.

van-hoc-mang.jpg

Trước đây, trong nghiên cứu và sáng tác văn học chúng ta thường chỉ quan tâm đến những tác phẩm tinh hoa, coi trọng các đề tài chính thống, cho đó là những tác phẩm có giá trị văn học đích thực. Còn những tác phẩm viết về tình báo, hình sự, an ninh, trinh thám, ngôn tình, văn chương phi hư cấu là “cận văn học”, mang tính giải trí, tức thời, chỉ đưa đến những “khoái cảm mỹ học thứ cấp”. Từ sau 1986, với sự đổi mới tư duy nghệ thuật, quan niệm về văn học và hiện thực, cách nhìn nhận giá trị văn học của giới nghiên cứu phê bình và sáng tác đã thực sự đổi khác, cởi mở, khách quan và công bằng hơn.Thực tiễn sáng tác từ sau 1986 đến nay cho thấy, các nhà văn đã luôn có ý thức kết hợp yếu tố đại chúng và tinh hoa trong cảm hứng sáng tạo nhằm mở rộng diện đọc, phổ cập hơn đến công chúng, đến cộng đồng tiếp nhận.

Trong không gian văn hóa, văn học đương đại, khoảng cách giữa văn học tinh hoa và đại chúng ngày càng thu hẹp lại. Một trong những yếu tố rút ngắn khoảng cách là sự xuất hiện của các yếu tố hình sự, đề tài an ninh xã hội vào các trang viết về đời thường, về nhân sinh thế sự trên cả hai phương diện cảm hứng và cách thức thể hiện. Người đọc như đã chứng kiến những tình tiết gay cấn, đầy bí ẩn và thương tâm trong tiểu thuyết “Điều tra về một cái chết” của Nguyễn Khải; đã gặp các tình tiết hình sự trong các tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong vườn”, “Ngược dòng nước lũ” của Ma Văn Kháng, hay cùng chia sẻ những hy sinh mất mát của những chiến sĩ an ninh “chúng ta ở trên đời không chỉ để ra lộc ra hoa mà còn để mang thương tích” mà nhà văn chọn thơ của Chế Lan Viên làm đề từ các cuốn “Bóng đêm”, “Bến bờ” của mình. Người đọc như cũng “tăng nhiệt” ra trước xung đột tột đỉnh tại một phiên tòa xử ly hôn trong tiểu thuyết “Gã tép riu” của Nguyễn Bắc Sơn; hoặc như nghẹt thở trước các tình tiết, trường đoạn vừa ly kỳ, kịch tính, vừa thấm đẫm nhân văn trong tiểu thuyết “Sóng lừng” (VN. Mafia) của Triệu Xuân; hay được kích thích thị hiếu bởi nghệ thuật kết cấu phối trộn nhiều dạng thức văn bản trong các tác phẩm “Nháp”, “Phiên bản” của Nguyễn Đình Tú…

van-hoc-1.jpg
Trạm đọc giới thiệu độc giả những tác phẩm văn chương mới
van-hoc-2.jpg
Văn Plus là diễn đàn văn chương thu hút nhiều người viết trẻ

Như vậy, văn xuôi viết về an ninh hay trinh thám cùng các hình thức khác nhau ngày càng lôi cuốn mời gọi người đọc tinh hoa cũng như bình dân. Văn học tinh hoa và đại chúng trong bối cảnh hiện nay đều góp phần mở rộng hiểu biết và nhận thức mang ý nghĩa nhân văn với cộng đồng tiếp nhận đương đại và điều đáng nhấn mạnh là đã ít nhiều làm thay đổi thang bậc giá trị khi đánh giá sự hiện diện của văn học đại chúng trong bối cảnh văn học hiện thời.
Bên cạnh sự tác động của kinh tế thị trường với sự “trương nở” của văn học đại chúng mà mảng văn xuôi viết về an ninh xã hội là một minh chứng, còn có sự tác động của văn học mạng đối với cơ chế sáng tạo và tiếp nhận hiện nay. Bên cạnh những sáng tác được in, xuất bản theo dạng thức truyền thống đã xuất hiện thế hệ viết trên “mười đầu ngón tay’’ ngày một đông đảo, luôn nhạy cảm với cái mới, cái khác, hướng đến cái nhìn “liên không gian” trong “thế giới phẳng” hôm nay. Văn học mạng trong ngữ cảnh toàn cầu hóa đã như cầu nối giữa khu vực ngoại vi và trung tâm, kiến tạo những quan hệ tương tác, đối thoại trực tiếp, cập nhật và thẳng thắn với các văn bản được sáng tác, lưu hành trên mạng.

Tác giả Phan Tuấn Anh trong cuốn “Những khu vực văn học ngoại biên” (Nxb Hội Nhà văn) khẳng định: “Dịch chuyển không gian văn học từ trung tâm đến ngoại biên và ngược lại trên nền tảng mạng/ máy tính đã tạo nên một nền tảng văn hóa đọc hài hòa, công chính”. Thực tế cho thấy, trong đời sống văn học bên cạnh những tập thơ, những cuốn tiểu thuyết, những tập tản văn, tiểu luận phê bình in giấy còn là những tác phẩm hình thành trên mạng được giới trẻ (những chủ thể sáng tạo và những chủ thể tiếp nhận) đón chào một cách hào hứng, nhiệt thành. Văn học mạng đã trở thành bộ phận không tách rời của “sinh thể văn chương Việt”. Và vì thế cách cảm nhận và đánh giá văn học mạng không còn định kiến, coi đó chỉ là phù phiếm nghiêng về giải trí. Có thể nói càng ngày công chúng và bạn đọc càng thấy thích thú, ưa chuộng hình thức đọc văn học trên mạng. Sự “bùng nổ” văn học mạng những năm gần đây góp phần thúc đẩy sự đọc và viết ở mọi không gian và thời gian khác nhau, giúp rút ngắn khoảng cách, tạo nên cách ứng xử bình đẳng và văn minh giữa tác phẩm và người đọc, giữa sáng tạo và tiếp nhận, giữa thế hệ cầm bút và thế hệ gõ phím trong đời sống văn học hiện nay.

Những gương mặt như Lê Vĩnh Tài, Nguyễn Phong Việt, Nguyễn Thế Hoàng Linh, Lữ Thị Mai, Đào Quốc Minh, Vũ Thiên Kiều… dần trở nên quen thuộc với cộng đồng mạng. Họ viết trên “nền tảng ngôn ngữ nhị phân” từ “văn bản mạng rồi mới chính thống hóa, cố định hóa thành văn bản in”, đó là quá trình “điển phạm hóa văn bản số”, là văn học mạng/ máy tính đích thực.

Có thể nói, không gian mạng là bệ đỡ cho nhiều cây bút mới xuất hiện trên diễn đàn văn học mạng. Không ít những sáng tác trên mạng đã được được in thành sách như: “Chuyện của thiên tài” (Nguyễn Thế Hoàng Linh), “Chuyện tình New York” (Hà Kin), các tập thơ “Đi qua thương nhớ”, “Từ yêu đến thương” của Nguyễn Phong Việt… Các tác giả nói trên hầu như đều đáp ứng được tầm đón đợi của giới trẻ. Họ đã đọc được các sáng tác trên mạng và khi chúng được in thành sách đều sẵn sàng bỏ tiền mua. Từ không gian mạng, các tác giả đã kết nối, tạo dựng được nhóm công chúng cho riêng mình, tạo lập và kích thích bình luận, tương tác giữa chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận. Tuy nhiên, sẽ không tránh khỏi những giới hạn, chưa đạt tới tiêu chuẩn thẩm mĩ nếu như đặt văn học mạng trong sự tương quan với những sáng tác văn học theo quan niệm truyền thống. Vì chú trọng cái tôi, tự do và chủ động thể hiện đời sống của chính mình và đối tượng liên quan nên văn học mạng dường như ngại ngần hoặc lúng túng đề cập đến những gì bên ngoài mình, đến thế giới quanh mình. Và có khi chỉ quan tâm đến giãi bày, bộc lộ bản thân mà lơ là đến chọn lời, chuốt ý, cách thức thể hiện.

Bên cạnh khu vực sáng tác, sự xuất hiện của hàng loạt cuốn sách với “bao bì” “nhãn mác” ưa nhìn, kích thích thị giác người đọc, thì những năm gần đây không thể không nhắc đến lĩnh vực nghiên cứu, lý luận phê bình văn học với sự góp mặt của các thế hệ, đặc biệt là các cây bút 7x, 8x… với cách hiện diện và quảng cáo độc đáo thu hút sự quan tâm của người đọc. Nói tới họ, không thể không nói tới sự tác động của lý thuyết nước ngoài đối với những người nghiên cứu, phê bình văn học nói chung và đặc biệt với lớp trẻ. Theo nhà nghiên cứu Phan Trọng Thưởng: “Bên cạnh yêu cầu nhận thức lại hệ thống lý luận văn học Mác-xít một cách đầy đủ, khách quan, khoa học hơn, với tư cách là hệ thống lý luận nền tảng ở Việt Nam hiện nay, những thành tựu bước đầu trong công tác dịch thuật, phổ biến và vận dụng các lý thuyết phương Tây và châu Âu hiện đại và tiền hiện đại như: Phân tâm học, Tự sự học, Thi pháp học, Ký hiệu học, Xã hội học nghệ thuật, Tâm lý học nghệ thuật, Lý thuyết tiếp nhận, Cấu trúc luận, văn học So sánh, Lý thuyết loại hình học,…đã bước đầu cho thấy một sự cộng sinh tư tưởng, một cơ hội phát triển tự do các lý thuyết” (Nhận diện và lý giải các hiện tượng văn học, Nxb Văn học, trang 207).

Trong thực tế, những lý thuyết kể trên đã được vận dụng khá nhuần nhị vào nghiên cứu văn học nước nhà, đem lại những cái nhìn mới, khá thuyết phục về những hiện tượng văn học, những trường hợp tác giả, tác phẩm từ cổ điển đến hiện đại, thỏa mãn nhu cầu đón đọc của độc giả không mấy dễ tính ở lĩnh vực chuyên ngành này. Lâu nay, công chúng tỏ ra không mấy mặn mà với các tập tiểu luận phê bình thì nay chúng đã đã có sức níu kéo người đọc với những cách tiếp cận và thể hiện đa chiều của một một đội ngũ khá sung sức từ trung ương đến các vùng miền. Có thể kể tới: Phạm Duy Nghĩa, Hoàng Đăng Khoa, Đoàn Minh Tâm, Phùng Gia Thế, Đoàn Ánh Dương, Hoài Nam, Trần Thiện Khanh, Hoàng Thụy Anh, Mai Anh Tuấn, Lê Tú Anh, Cao Kim Lan, Lê Hồ Quang, Nguyễn Thanh Tâm, Nguyễn Thị Tịnh Thi, Hoàng Thị Huế, Trần Huyền Sâm, Hoàng Cẩm Giang, Cao Thị Hồng, Nguyễn Văn Thuấn, Phan Tuấn Anh, Thái Phan Vàng Anh, Mai Liên Giang, Thanh Tâm Nguyễn, Đỗ Hải Ninh, Lê Hương Thủy, Nguyễn Văn Hùng… Lớp trẻ này đều được đào tạo bài bản ở các trường đại học và sau đại học, có kiến thức nền về văn hóa, văn học thế giới và Việt Nam, lại tiếp thu một cách nhạy bén các lý thuyết văn học nước ngoài nên nhiều khi đọc các chuyên luận, tiểu luận của họ còn hấp dẫn hơn đọc sáng tác, bởi nó dẫn dụ người đọc vào thế giới nghệ thuật của những tác giả, tác phẩm với những nhận định và đánh giá không chỉ thỏa đáng và thuyết phục mà còn mang lại khoái cảm thẩm mỹ đối với người đọc. Trong số các chuyên luận, tiểu luận với các nhan đề luôn kích thích sự đọc không thể không nhắc tới: Phiêu lưu chữ, Song hành & đối thoại, Đứng về phe cái khác (Hoàng Đăng Khoa); Những khu vực văn học ngoại biên, Văn học Việt Nam thời đổi mới từ góc nhìn tham chiếu (Phan Tuấn Anh); Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI: Lạ hóa một cuộc chơi (Thái Phan Vàng Anh); Những thế giới song hành từ truyện ngắn đến điện ảnh (Nguyễn Văn Hùng), Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương (Nguyễn Thị Tịnh Thy), Ma thuật của truyện kể - tự sự học và những diễn giải văn học Việt Nam hiện đại (Cao Kim Lan); Thơ Hồ Thế Hà và giấc mơ cỏ hát (Hoàng Thụy Anh)… Thực tiễn văn học đương đại đang vận hành và nhận vào nó những tác động từ nhiều phía. Nhìn nhận ở một vài tác động tích cực trong đời sống văn học đương đại đã phần nào thấy được những chuyển động và đổi mới. Đây cũng chính là những giá trị văn học mới, đáp ứng với thời cuộc và công chúng đương đại./.

Bài liên quan
  • Chuyện phố - Tiếp nối hành trình trăn trở về thế sự
    Chiều ngày 25/3/2024, NXB Phụ nữ Việt Nam phối hợp với Bộ môn Lý luận văn học - Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức buổi tọa đàm “Chuyện phố - Một tự sự về đô thị đương đại” tại sảnh Nhà E, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tới dự tọa đàm có đại diện của Ban giám hiệu nhà trường, đại diện Nhà xuất bản, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu cùng đông đảo bạn đọc trẻ.
(0) Bình luận
  • Ngô Thanh Vân, vẻ đẹp kỳ diệu của nỗi buồn
    Người xưa rất coi trọng phần nội tâm (tình) trong thơ. Không có văn bản văn học nào thể hiện cái tôi cá nhân rõ như thơ. Nói như nhà văn Trịnh Bích Ngân: “Thơ không chịu được sự che đậy... Dũng cảm phơi bày. Chân thành phơi bày”.
  • Thao thức với phần đời chiến trận
    Có thể nói cuộc kháng chiến trường kỳ hào hùng và bi tráng của dân tộc, ở bất kỳ trạng huống nào dường như đã chi phối và tạo động lực cho đội ngũ văn nghệ sĩ, những người cầm bút suy nghĩ và sáng tạo. Ta hiểu vì sao ngay trong cuộc sống thời bình, trong đời sống dân sự, những hình ảnh của ngày hôm qua vẫn khiến con người luôn “thao thức với phần đời chiến trận”.
  • Phát huy vai trò của văn nghệ sĩ Thủ đô trong phát triển công nghiệp văn hóa
    Hà Nội - Thủ đô tự nhiên của lưu vực sông Hồng, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước từ ngàn xưa đã là nơi hội tụ và đào luyện nhân tài. Phần lớn danh nhân Việt Nam từng sống, làm việc, sáng tạo ở Thăng Long - Hà Nội, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc. Ở mảnh đất hội tụ tinh hoa văn hóa bốn phương ấy, con người Thăng Long mang trong mình nét tài hoa, đa tài, đa nghệ, thấm đẫm bản sắc trí tuệ và tinh thần sáng tạo. Trong đó, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ - những người sinh ra, lớn lên hoặc gắn bó với Hà Nội đã góp phần tạo nên diện mạo văn hóa, nghệ thuật Thủ đô bằng nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, khẳng định sức sống trường tồn của văn hóa nghìn năm. Họ chính là nguồn lực đặc biệt không thể thiếu trong hành trình phát triển công nghiệp văn hóa của Hà Nội hôm nay.
  • Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong bối cảnh hội nhập
    Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết của các cấp, các ngành mà còn là sứ mệnh đặc biệt của đội ngũ văn nghệ sĩ Thủ đô. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, việc xác định rõ những trọng tâm trong xây dựng hệ giá trị văn hóa là hết sức cần thiết.
  • Những lưu dấu văn hóa về Hà Nội qua ngôn từ văn chương
    Ngay từ nền văn học Việt Nam trung đại, những trước tác về miền đất thiêng (đất thánh) Đông Đô - Thăng Long - Hà Nội đã được ghi khắc trong sử văn: “Chiếu dời đô” (thế kỷ XI) của Lý Công Uẩn, “Thượng kinh ký sự” (thế kỷ XVIII) của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, “Vũ trung tùy bút” (thế kỷ XIX) của Phạm Đình Hổ, “Long Thành cầm giả ca” (thế kỷ XIX) của Nguyễn Du, “Thăng Long thành hoài cổ” (thế kỷ XIX) của Bà Huyện Thanh Quan.
  • Hai thể thơ mới namkau và 1-2-3 trong lịch sử phát triển của các thể thơ dân tộc
    Khoảng mươi năm gần đây, trên thi đàn Việt xuất hiện hai thể thơ mới: namkau và 1-2-3. Là sản phẩm của thế kỷ công nghệ số, những thể thơ này còn đang ở thời kỳ phôi thai trứng nước.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Ngô Thanh Vân, vẻ đẹp kỳ diệu của nỗi buồn
    Người xưa rất coi trọng phần nội tâm (tình) trong thơ. Không có văn bản văn học nào thể hiện cái tôi cá nhân rõ như thơ. Nói như nhà văn Trịnh Bích Ngân: “Thơ không chịu được sự che đậy... Dũng cảm phơi bày. Chân thành phơi bày”.
  • “Tấu khúc lưỡng cực”: Đêm nhạc giao thoa văn hóa Việt - Đức
    Trong hai ngày 20 và 21/12, tại Nhà hát Hồ Gươm sẽ diễn ra chương trình hòa nhạc “Tấu khúc lưỡng cực - A Rhapsody of Two Worlds” do Hội Nhạc cổ điển Việt Nam tổ chức. Sự kiện mang ý nghĩa đặc biệt nhân kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Đức.
  • Chuyển đổi số - Cơ hội và thách thức với văn học nghệ thuật Thủ đô
    Trong bối cảnh chuyển đổi số đang trở thành xu thế tất yếu của mọi lĩnh vực đời sống, văn học nghệ thuật Thủ đô cũng đứng trước những vận hội lớn cùng không ít thách thức. Tọa đàm “Văn học nghệ thuật Thủ đô trong ứng dụng chuyển đổi số hiện nay” do Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội tổ chức sáng 5/12 đã góp phần nhận diện những chuyển động mạnh mẽ của đời sống văn học nghệ thuật trong môi trường số, đồng thời gợi mở những định hướng phát triển phù hợp với thực tiễn.
  • Liên hoan các câu lạc bộ chèo không chuyên tỉnh Bắc Ninh
    Liên hoan năm nay quy tụ hơn 500 nghệ nhân, diễn viên và nhạc công không chuyên đến từ 12 câu lạc bộ chèo thuộc các xã, phường trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
  • Khai mạc 'Ngày hội Việt Nam hạnh phúc 2025'
    Năm 2025, lần đầu tiên "Ngày hội Việt Nam hạnh phúc - Vietnam Happy Fest" được tổ chức dưới hình thức một chuỗi hoạt động trải dài liên tục qua đó có thể kể một câu chuyện trọn vẹn hơn về “hạnh phúc của người Việt” thông qua nhiều không gian, nhiều hoạt động trải nghiệm và tương tác khác nhau.
Đừng bỏ lỡ
Văn học Việt Nam đương đại - những tác động và chuyển đổi tích cực
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO