Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong bối cảnh hội nhập
Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết của các cấp, các ngành mà còn là sứ mệnh đặc biệt của đội ngũ văn nghệ sĩ Thủ đô. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, việc xác định rõ những trọng tâm trong xây dựng hệ giá trị văn hóa là hết sức cần thiết.

Từ thực tiễn đời sống văn hóa nghệ thuật Thủ đô, có thể nhìn nhận 5 vấn đề then chốt đang đặt ra, đòi hỏi sự vào cuộc mạnh mẽ và đồng hành sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ.
Một là, phải nhìn rõ để có thể tập trung xây dựng, và tìm ra phương thức phát triển có hiệu quả các chủ thể sáng tạo, nói khác đi là xây dựng và phát triển lực lượng các nhà sáng tác về văn học, mỹ thuật, âm nhạc, sân khấu, nhiếp ảnh, kiến trúc, các biên đạo và nghệ sĩ biểu diễn ca, múa, nhạc, các đạo diễn và diễn viên điện ảnh, các nhà nghiên cứu văn nghệ dân gian và lý luận, phê bình.
Hai là, có những tác động xã hội cần thiết để mở rộng và nâng cao lực lượng công chúng, khán thính giả, độc giả - những người tiếp nhận, thưởng thức, đồng hành với lực lượng sáng tạo, để các giá trị văn hóa có thể trụ vững, lan tỏa, thẩm thấu vào mọi tầng lớp, mọi địa bàn, để quảng bá và phát huy được thế mạnh của các giá trị văn hóa, nhân nó lên rộng rãi và gìn giữ nó lâu bền.
Ba là, phải có các cơ sở văn hóa thích hợp, nơi lưu giữ và phát huy được thế mạnh các di tích, hiện vật, tác phẩm và công trình. Đó là các thư viện, bảo tàng, nhà hát, rạp chiếu bóng, nhà văn hóa, nhà triển lãm phù hợp và đa năng.
Bốn là, cần triển khai đồng bộ các hoạt động văn hóa cả bề nổi và bề sâu, nhằm tạo điều kiện để các giá trị văn hóa thấm sâu, lan tỏa và kết nối rộng rãi trong đời sống xã hội. Trước hết, cần chú trọng công tác xuất bản, in ấn và phổ biến các sản phẩm văn hóa như sách, tranh, ảnh, bưu thiếp, album nghệ thuật; đẩy mạnh quảng bá sách báo và văn hóa phẩm. Song song với đó, cần thường xuyên tổ chức các hội thảo, tọa đàm, buổi nói chuyện chuyên đề, trao đổi học thuật, giao lưu nghề nghiệp; tổ chức định kỳ các triển lãm, trưng bày văn hóa phẩm, giới thiệu các công trình, nhân vật và giá trị văn hóa tiêu biểu. Bên cạnh đó, nên tổ chức đều đặn các buổi giới thiệu, thảo luận, thậm chí tranh luận về tác phẩm tại thư viện; chiếu phim, tổ chức biểu diễn ca múa nhạc, các chương trình biểu diễn tổng hợp, giới thiệu kịch hoặc tác phẩm sân khấu cổ và kim ở các nhà hát, các CLB nghệ thuật, các rạp chiếu phim, các sàn biểu diễn… Cùng với các hoạt động chuyên môn, các lễ hội dân gian cũng cần được quan tâm đúng mức, bởi đây là hình thức sinh hoạt văn hóa có sức lan tỏa mạnh mẽ, góp phần gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống trong đời sống cộng đồng.
Năm là, Cần quan tâm bảo tồn, gìn giữ và phát huy đa dạng các loại hình văn hóa khác biệt: từ văn hóa dân gian đến văn hóa bác học, từ giá trị vật thể đến phi vật thể, từ truyền thống đến những giá trị mới du nhập nhưng đã chứng minh sức sống và khẳng định vị thế trong đời sống văn hóa Việt Nam. Đây là nhiệm vụ không dễ dàng, bởi phải làm sao để các giá trị văn hóa có nguồn gốc khác nhau không loại trừ hay làm giảm giá trị của nhau, mà cùng bổ trợ, tạo nên sự phát triển hài hòa, đồng bộ và có định hướng vững chắc.
Nhìn vào năm vấn đề nêu trên có thể thấy, vai trò của đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức là hết sức quan trọng. Trong giai đoạn mới, họ không chỉ cần phát huy tinh thần trách nhiệm mà còn phải chủ động, sáng tạo hơn, có những sáng kiến và hành động mạnh mẽ hơn để tạo ra chuyển biến thực chất, nâng cao vị thế của mình trong hoạt động nghề nghiệp, đồng thời góp phần tạo nên những đột phá mới trong đời sống văn hóa - nghệ thuật.
Như đồng chí Nguyễn Văn Linh từng nói từ năm 1986, “văn nghệ sĩ phải biết tự cứu mình trước khi chờ trời cứu”. Soi vào thực tế tác động xã hội của văn hóa, văn nghệ hôm nay, chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận: so với nhiều quốc gia tiên tiến, Việt Nam vẫn đang ở vị trí khiêm tốn. Chỉ cần lấy ví dụ về văn hóa đọc - một chỉ số cơ bản phản ánh trình độ dân trí có thể thấy rõ điều đó. Hiện nay, với hơn 100 triệu dân, bình quân mỗi người Việt vẫn chưa đạt nổi mức một cuốn sách mỗi năm, một con số quá thấp nếu so với các nước phát triển. Ở các nước châu Âu hay Nhật Bản, người ta có thể dễ dàng bắt gặp hình ảnh hành khách trên tàu, trên xe tranh thủ đọc sách để làm giàu tri thức, biến quãng thời gian chờ đợi thành những phút giây hữu ích. Chỉ một ví dụ nhỏ ấy đã đủ cho thấy khoảng cách về dân trí giữa chúng ta và họ còn khá xa.
Nếu trong hai thập kỷ tới, như mục tiêu Chính phủ đặt ra, GDP bình quân đầu người tiệm cận nhóm nước giàu, nhưng mức hưởng thụ văn hóa, đơn cử như văn hóa đọc vẫn trì trệ như hiện nay, thì chúng ta vẫn chỉ có thể đứng trong nhóm các quốc gia phát triển chậm, khó có thể sánh ngang với những nước có nền văn minh văn hóa cao, được định hình từ lâu. Nói như vậy để thấy, trong công cuộc vươn mình này, kinh tế và văn hóa đều phải cùng vươn mình, không xem nhẹ lĩnh vực nào nếu muốn đạt được sự phát triển bền vững và đồng bộ.

Trong bối cảnh kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ (minh chứng là GDP quý III năm 2025 đã vượt mức 8%), thì văn hóa cũng cần có những bước tiến tương xứng. Đáng mừng là trong năm nay, chúng ta đã chứng kiến Trung tâm Triển lãm quốc gia - công trình quy mô tầm thế giới được hoàn thành tại Đông Anh chỉ trong 10 tháng. Và ngay trong quý IV, Nhà hát Opera trên bán đảo Quảng An (Hồ Tây) cũng chính thức khởi công, được kỳ vọng trở thành biểu tượng văn hóa mới của Thủ đô, sánh tầm với Nhà hát Sydney (Australia).
Về phía đội ngũ văn nghệ sĩ, đã đến lúc chúng ta cần có những chương trình hành động mới mẻ, táo bạo và quyết liệt hơn, để tạo ra những kết quả đột phá cả về quy mô lẫn chất lượng. Đó là sự khẳng định tầm vóc mới của giới văn nghệ sĩ Việt Nam không chỉ trong phạm vi nghề nghiệp mà còn ở sức ảnh hưởng xã hội, trong nước và quốc tế. Làm được điều đó, chính là trách nhiệm đồng thời cũng là vinh dự lớn lao của mỗi người sáng tạo nghệ thuật hôm nay.
Nhìn lại thời gian qua, văn hóa - văn nghệ nước ta đã ghi nhận nhiều tín hiệu đáng mừng. Trong âm nhạc, ca sĩ Hòa Minzy gây tiếng vang lớn với tổ khúc “Bắc Bling” dựa trên dân ca quan họ Bắc Ninh, thu hút hơn 100 triệu lượt theo dõi toàn cầu, góp phần quảng bá văn hóa quan họ và khơi dậy làn sóng du lịch tới vùng Kinh Bắc. Gần đây, ca khúc “Phù Đổng Thiên Vương” của nhạc sĩ Hồ Hoài Anh, phổ thơ “Tre Việt Nam” của nhà thơ Nguyễn Duy, do ca sĩ Đức Phúc thể hiện đã giành giải Quán quân cuộc thi âm nhạc quốc tế Intervision 2025 tại Matxcơva, mang lại niềm tự hào cho âm nhạc Việt Nam. Đó đều là những tin tức rất vui, đầy phấn khích. Nó cũng thể hiện văn hóa Việt đã sẵn sàng có vị thể sánh ngang tầm với văn hóa thế giới, nếu chúng ta biết khai thác khôn ngoan, thông minh và phù hợp, đồng thời gắn được vào phong cách hiện đại.
Trong điện ảnh, hai bộ phim về đề tài chiến tranh “Địa đạo: Mặt trời trong bóng tối” (về địa đạo Củ Chi) và “Mưa đỏ” (về 81 ngày đêm thành cổ Quảng Trị) đã tạo nên cơn sốt phòng vé, trong đó “Mưa đỏ” đạt doanh thu hơn 700 tỷ đồng, lập kỷ lục của điện ảnh Việt.
Sau âm nhạc và điện ảnh, những thành quả này cũng đặt ra yêu cầu mới cho văn học, mỹ thuật, nhiếp ảnh, kiến trúc… đòi hỏi các nghệ sĩ phải nỗ lực sáng tạo mạnh mẽ hơn, để cùng tạo nên một bức tranh toàn cảnh về văn học nghệ thuật Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.
Điều đó đòi hỏi văn nghệ sĩ phải rèn luyện khả năng sáng tạo cao hơn, vượt lên nhiều lần hơn, so với yêu cầu trước đây, làm sao để năng lực sáng tạo phải được công nhận ở tầm châu lục và quốc tế. Trong các kỹ năng này, cần thiết là năng cao kỹ năng chuyên môn và khả năng phát hiện ra những vấn đề chia sẻ được với thế giới, từ thực tiễn và cuộc sống của Việt Nam hôm nay.
Bên cạnh đó, văn nghệ sĩ phải chịu khó đọc rộng, quan sát nhiều, trau dồi ngoại ngữ, dành thời gian nghiên cứu xu hướng phát triển của văn học nghệ thuật toàn cầu, từ đó tìm ra con đường sáng tạo phù hợp. Khi những vấn đề của Việt Nam được thể hiện bằng ngôn ngữ nghệ thuật mang tầm nhân loại, chạm vào trái tim và khối óc của công chúng thế giới tác phẩm của chúng ta mới được thế giới công nhận.
Cùng với đó, cần tăng cường giao lưu quốc tế, mở rộng hợp tác với văn nghệ sĩ ở các thủ đô lớn của châu Á và thế giới; đồng thời đẩy mạnh công tác dịch thuật để trao đổi tinh hoa văn hóa giữa Việt Nam và bạn bè quốc tế. Đặc biệt, cần sớm hình thành một Viện Dịch thuật quốc gia do Nhà nước bảo trợ, nhằm tuyển chọn và dịch những tác phẩm xuất sắc nhất của thế giới ra tiếng Việt, đồng thời giới thiệu tinh hoa văn học nghệ thuật Việt Nam ra thế giới. Kinh nghiệm từ Hàn Quốc cho thấy, chính nhờ hoạt động dịch thuật bài bản mà nhà văn Han Kang đã giành Giải Nobel Văn học đầu tiên cho Hàn Quốc - một minh chứng sinh động về sức mạnh của đầu tư cho dịch thuật.
Bên cạnh đó, việc phát hiện, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài trẻ trong lĩnh vực văn học nghệ thuật cũng là nhiệm vụ cấp thiết. Đây chính là lực lượng kế cận, bảo đảm cho sự phát triển hài hòa và bền vững của văn học nghệ thuật Việt Nam trong tương lai.