Lý luận - phê bình

Thao thức với phần đời chiến trận

Nguyễn Bích Thu 18:20 06/12/2025

Có thể nói cuộc kháng chiến trường kỳ hào hùng và bi tráng của dân tộc, ở bất kỳ trạng huống nào dường như đã chi phối và tạo động lực cho đội ngũ văn nghệ sĩ, những người cầm bút suy nghĩ và sáng tạo. Ta hiểu vì sao ngay trong cuộc sống thời bình, trong đời sống dân sự, những hình ảnh của ngày hôm qua vẫn khiến con người luôn “thao thức với phần đời chiến trận”.

Như vậy, từ thực tế đời sống nói chung và văn chương nghệ thuật nói riêng của một đất nước hơn một lần chống giặc ngoại xâm như Việt Nam, ký ức về chiến tranh vẫn không thôi ám ảnh, nhắc nhớ và thôi thúc những người cầm bút tái nhận thức và tái tạo về một thời “hoa lửa”, một thời “mưa đỏ”, những hình ảnh mang tính biểu tượng của chiến tranh trong các trang viết hôm nay. Thông qua các sáng tác của nhà văn, những nhà phê bình lại có dịp cảm thụ và tiếp nhận hình ảnh quá khứ, những vùng trời ký ức lại một lần nữa trình hiện “kép” trên các trang nghiên cứu phê bình. Không phải ngẫu nhiên mà như một sự sắp đặt, đã hội tụ những cây bút quan tâm hoặc chuyên nghiên cứu, phê bình về văn học chiến tranh và người lính, tiêu biểu là các trường hợp: Ngô Thảo với “Từ cuộc đời chiến sĩ” (1978), “Văn học và người lính” (2001), “Thao thức với phần đời chiến trận” (2009), “Dĩ vãng phía trước” (2011), “Thư chiến trường” (2011), “Bốn nhà văn nhà số 4” (2020); Bùi Việt Thắng với “Khúc bi tráng thứ tư” (2022); Nguyễn Thanh Tú với “Văn học và chiến tranh” (2019); Tôn Phương Lan với “Âm vang chiến tranh” (2019) và Lý Hoài Thu với “Văn nhân quân đội” (2015). Có thể nói, ngay từ cách đặt tên sách, các tác giả đã thể hiện đề tài, chủ đề, ý tưởng mà mình hướng tới, xoáy sâu vào “cuộc đời chiến sĩ” không chỉ ở cảm hứng mà còn ở cách thức biểu hiện. Với họ “chạy trời không khỏi ra văn học về chiến tranh”.

anh-dai-dien.png
Các công trình lý luận phê bình nhìn từ chiến tranh cho thấy ký ức chiến tranh trong văn học vẫn tiếp tục được nhận diện, đối thoại và suy ngẫm.

Trong hơn chục tập tiểu luận phê bình, nhà văn, cựu chiến binh Ngô Thảo dường như nghiêng về tìm hiểu, nghiên cứu, phê bình văn học chiến tranh và người lính. Những tập tiểu luận phê bình của ông luôn hừng hực sức sống, sắc sảo, mang tính thời sự với những nhận định, đánh giá rành rẽ, thấu đáo và thuyết phục. Điều may mắn với nhà phê bình Ngô Thảo là ông không chỉ cảm nhận tác phẩm, mà còn sống cùng với chủ thể sáng tạo là những nhà văn cùng thời. Những tâm tình, suy nghĩ về nghề, về bạn bè đồng nghiệp hay cá tính của họ trong đời riêng hay trên trang viết, ông đều dự phần, chứng kiến và sẻ chia nên các tiểu luận, bài viết của ông đáng tin cậy và có sức truyền cảm.

Theo nhà phê bình Ngô Thảo, lịch sử chiến tranh bảo vệ và xây dựng đất nước cả thế kỷ qua “chắc chắn mãi mãi là kho tàng vô tận cho các sáng tạo văn học nghệ thuật trong tương lai. Chúng ta hi vọng là nhất định sẽ có nhiều tài năng lớn, có những tác phẩm lớn ghi lại một cách chân thực và xúc động về những năm tháng hầu như chỉ có trong một đời người, mà hoàn thành được một sự nghiệp nhiều ngàn đời mơ ước” (Lặng lẽ những đời văn, NXB Hội Nhà văn, 2021). Chính từ điều đó, ông có ý thức ghi chép rồi hình thành mảng tư liệu chuyện đời, chuyện văn của các nhà văn mặc áo lính, những người từ chiến sĩ viết văn trở thành nhà văn chiến sĩ. Tập ghi chép mang tính hồi ức “Dĩ vãng phía trước” (2011) ra đời, tiếp đó là tập tư liệu văn học hệ thống và chuyên sâu hơn về “Bốn nhà văn nhà số 4” (Nguyễn Thi, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Thu Bồn, NXB Hội Nhà văn, 2020). Vì vậy không ngoa khi nói rằng cả đời văn của Ngô Thảo là “hành trình đi nhặt dĩ vãng, vun vén cho mai sau” (chữ của Văn Thành Lê). Xin chia sẻ với tác giả Ngô Thảo, có thể nói những nhà văn hiện diện trong tập sách này “tác phẩm của họ đã từng làm giàu có đời sống tinh thần của cả dân tộc, đã lần lượt thành người thiên cổ. Họ trọn đời là những người lính, từ đời lính, vì người lính mà viết văn, làm thơ; họ là sản phẩm của một thời đất nước có chiến tranh, từ cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc đó đã sản sinh ra một loạt nhân vật đặc biệt với lý tưởng vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh”. Từ cái nhìn khái quát ấy, Ngô Thảo nhận ra trong cuộc hành quân gian lao và vĩ đại của các nhà văn áo lính đã có những người thành danh, nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật: Nguyễn Thi, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Thu Bồn. Đây là cuốn tư liệu có đầy đủ tiểu sử và ảnh chân dung cùng những tiểu luận của ông về đời văn và những cống hiến mang đặc trưng phong cách của từng nhà văn mà ông đã đồng hành cùng họ trong một thời gian dài.

Với Nguyễn Thi, Ngô Thảo phát hiện hành trình từ “người tạc tượng các anh hùng” trở thành nhà văn anh hùng Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi. Đọc văn Nguyễn Khải, nhà phê bình nhận ra tính vấn đề của một ngòi bút viết cho hôm nay nhưng không dừng lại ở tính kịp thời mà vẫn tiềm ẩn trong nhà văn một người có “tầm nhìn xa” về thời cuộc và lịch sử dân tộc. Với Nguyễn Minh Châu, Ngô Thảo nhận thấy sự tương đồng và chuyển đổi trong sáng tác của nhà văn từ hai bài viết có nhan đề gần như trùng hợp: bài trước là phê bình tiểu thuyết “Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu, bài sau là cái nhìn sâu sắc và đầy tiếc thương về một tài năng chưa đi hết cung đường sáng tạo của mình, dẫu đã có những truyện ngắn viết về người lính, về những góc khuất đời thường trong chiến tranh từng gây xôn xao dư luận của một “người mở đường tinh anh”.

Với Thu Bồn - người dường như gắn bó với Ngô Thảo hơn cả, có số phận đặc biệt vừa mạnh mẽ vừa yếu đuối, chân thành mà bất hạnh, tài năng mà thiệt thòi. Ông đã được nhà phê bình dành cho những lời đẹp đẽ: “người ta thường ví nhà văn nhà thơ lớn với cây đại thụ, nhưng sự nghiệp sáng tác đồ sộ của Thu Bồn gợi người đọc liên tưởng đến một cánh rừng nguyên sinh bởi sự phóng khoáng, hoang dã gắn với núi rừng Tây Nguyên đầy bí ẩn và kỳ lạ” (tr. 440). Với những cuốn sách phê bình kể trên, Ngô Thảo xứng đáng là nhà phê bình hàng đầu về văn học chiến tranh và người lính.

Tiếp theo Ngô Thảo là những nhà nghiên cứu phê bình văn học thế hệ thứ hai, có ý thức quan tâm đến mảng đề tài chiến tranh và nhà văn trong quân ngũ. Bùi Việt Thắng, Tôn Phương Lan, Lý Hoài Thu, Nguyễn Thanh Tú đều là các nhà phê bình văn học Việt Nam hiện đại trên nhiều bình diện như thể loại, tác gia, tác phẩm hay lý luận văn học. Trong quá trình đọc và viết, họ có những ngã rẽ riêng nhưng gặp nhau ở “tuyến đường” văn học chiến tranh. Bùi Việt Thắng nổi bật ở mảng phê bình trực chiến. Ông dường như đọc gần hết các tiểu thuyết viết về chiến tranh do cơ duyên gắn bó với văn học lực lượng vũ trang từ rất sớm, ngay từ đầu những năm tám mươi của thế kỷ XX. Dễ nhận ra vì sao ông cho ra mắt tập sách bao quát và chuyên sâu “Khúc bi tráng thứ tư”. Là một nhà phê bình đã có “thương hiệu”, các bài viết của ông như “Một cách viết về chiến tranh”, “Hồi ức chiến tranh như là ký ức lương thiện về quá khứ anh hùng”, “Sự trở lại của đề tài chiến tranh cách mạng”, “Sắc thái nữ quyền trong trang sách về chiến tranh”, “Những bản anh hùng ca bằng ngôn ngữ nghệ thuật về Điện Biên Phủ” thường ra đời đúng dịp kỷ niệm một sự kiện lớn nào đó và ông luôn đáp ứng yêu cầu thời sự và mong đợi của công chúng. Là người đọc nhiều nên ông nhanh nhạy tiếp cận các sáng tác mới viết về chiến tranh như Nguyễn Trọng Luân với “Rừng đói”, Hồ Sĩ Hậu với tiểu thuyết “Dòng sông mang lửa”, Nguyễn Hùng Sơn với tiểu thuyết “Nằm ngất mây trắng”, Đặng Ngọc Hưng với “Hùng binh” (tiểu thuyết lịch sử), Dương Thiên Lý với “Vị tướng thành Nam”, bên cạnh các nhà văn quen thuộc như Chu Lai, Ma Văn Kháng, Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Trí Huân, Khuất Quang Thụy, Nguyễn Trọng Tân, Lê Hoài Nam… Nếu các bài viết của Bùi Việt Thắng thường ngắn gọn, khái quát thì “Văn học và chiến tranh” của Nguyễn Thanh Tú lại là các tiểu luận dài hơi, khẳng định thành tựu và đổi mới của tiểu thuyết chiến tranh qua bình diện thi pháp: “Tiểu thuyết sử thi giai đoạn 1945 - 1975 nhìn từ hôm nay”, “Tiểu thuyết sử thi từ 1975 đến cuối thế kỷ XX - những trăn trở tìm tòi”, “Đổi mới tiểu thuyết sử thi những năm đầu thế kỷ XXI”, “Không gian tâm linh - một nét đổi mới của tiểu thuyết đề tài chiến tranh”, “Đổi mới mô hình không gian trong tiểu thuyết sử thi”. Về thơ, ông cũng nghiêng về thể trường ca và tiếp cận từ thi pháp thể loại với các bài: “Trường ca sử thi đương đại từ góc nhìn văn hóa”, “Trường ca sử thi - những tìm tòi đổi mới”, “Thơ về người lính trên tạp chí Văn nghệ Quân đội”.

Hai cuốn sách của Tôn Phương Lan và Lý Hoài Thu đều hướng đến văn học chiến tranh, nhưng trong khi Tôn Phương Lan tập trung vào đề tài chiến tranh và người lính qua các hiện tượng thể loại, tác giả, tác phẩm thì Lý Hoài Thu quan tâm đến chủ thể viết là những nhà văn quân đội, để “nghiên cứu sâu các sáng tác của họ, tìm ở đó những cái mới mẻ sâu sắc để định danh cá tính sáng tạo” của mỗi văn nhân.

Nhà phê bình Tôn Phương Lan đã từng bước tiến vào đề tài chiến tranh bằng cái nhìn biện chứng cùng nhãn quan nghiên cứu chuyên sâu, cho thấy sự vận động và đổi mới đáng kể của tiểu thuyết viết về chiến tranh qua chùm bài “Một cách nhận diện sự vận động của tiểu thuyết sử thi”, “Bước chuyển quan trọng của tiểu thuyết sau 1975”, “Những thành tựu của tiểu thuyết chiến tranh”, “Mấy suy nghĩ về đề tài chiến tranh - vấn đề và hiện tượng”, “Nhà văn thế hệ mặc áo lính và đề tài chiến tranh”. Từ đó bà chọn ra những chân dung nhà văn tiêu biểu: “Di cảo Nguyễn Minh Châu và cái nhìn ngược sáng”, “Chiến tranh vẫn âm vang qua Xuân Thiều”, “Nguyễn Trọng Oánh - nhà văn đi từ chiến tranh”, “Nhà văn cầm súng liệt sĩ Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi”, “Liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý - nhà văn, người mẹ anh hùng”, “Anh Đức - nhà văn cách mạng và kháng chiến”, “Văn Lê viết từ trải nghiệm”, “Trầm Hương trong vòng xoáy chiến tranh”.

Với “Văn nhân quân đội”, Lý Hoài Thu như một “người bạn của các nhà văn quân đội”, không chỉ thân thiết trong đời thường mà còn là bạn tri âm trong từng tác phẩm của họ. Người viết dường như chạm tới phẩm tính, cái làm nên căn cước của mỗi nhà văn khi nhắc đến sáng tác của họ. Đó là: “Không gian Trường Sơn và giai điệu tình yêu trong thơ Phạm Tiến Duật”; là phát hiện tinh tế “Cây như là sinh mệnh thứ hai trong thơ Hữu Thỉnh”,“Lưu Quang Vũ - Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi”, “Trần Anh Thái - một cái tôi trường ca mang đầy thương tích” không chỉ viết về những người ở bên này cuộc chiến, mà còn viết về cả những nhân vật bên kia cuộc chiến:

“Xác quân thù xác bạn gục vào nhau
Kẻ thất trận dưới chân đồi lê bước
kéo hoàng hôn rã rời
Kẻ thắng trận hai tay ôm mặt khóc
Thương tích tạc vào gió thổi ngàn sau.”

Có thể nói, những cuốn sách lý luận phê bình của Ngô Thảo, Bùi Việt Thắng, Nguyễn Thanh Tú, Tôn Phương Lan và Lý Hoài Thu cho thấy quá khứ chiến tranh trong văn học không chỉ là gợi nhớ một cuộc chiến đã qua. Thực tế, không ít người muốn lãng quên thậm chí phủ nhận quá khứ. Nhưng phần đông công chúng và độc giả hiện nay vẫn mong chờ những tác phẩm văn học nghệ thuật thể hiện chân thực, khách quan, xúc động và nhân bản cuộc chiến đấu sinh tử của người lính như tiểu thuyết“Mưa đỏ” của Chu Lai, “Khúc ca người lính” của Nguyễn Trọng Tân, “Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín” của Nguyễn Một. Hơn bao giờ hết, cả nhà văn và người đọc mong muốn những tác phẩm đáp ứng “tầm đón đợi” của công chúng, giúp họ đối diện và tái nhận thức đa chiều về chiến tranh với những hào hùng, bi tráng, vinh quang và với cả những mất mát, chấn thương mà chiến tranh để lại. Chính những ám ảnh chiến tranh ấy đã âm thầm thẩm thấu vào ký ức của nhiều thế hệ, tác động đến quá trình sáng tạo và tiếp nhận của đội ngũ nhà văn đương đại, trong đó có sự góp mặt quan trọng của những cây bút nghiên cứu, lý luận và phê bình./.

Bài liên quan
  • Những lưu dấu văn hóa về Hà Nội qua ngôn từ văn chương
    Ngay từ nền văn học Việt Nam trung đại, những trước tác về miền đất thiêng (đất thánh) Đông Đô - Thăng Long - Hà Nội đã được ghi khắc trong sử văn: “Chiếu dời đô” (thế kỷ XI) của Lý Công Uẩn, “Thượng kinh ký sự” (thế kỷ XVIII) của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, “Vũ trung tùy bút” (thế kỷ XIX) của Phạm Đình Hổ, “Long Thành cầm giả ca” (thế kỷ XIX) của Nguyễn Du, “Thăng Long thành hoài cổ” (thế kỷ XIX) của Bà Huyện Thanh Quan.
(0) Bình luận
  • Phát huy vai trò của văn nghệ sĩ Thủ đô trong phát triển công nghiệp văn hóa
    Hà Nội - Thủ đô tự nhiên của lưu vực sông Hồng, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước từ ngàn xưa đã là nơi hội tụ và đào luyện nhân tài. Phần lớn danh nhân Việt Nam từng sống, làm việc, sáng tạo ở Thăng Long - Hà Nội, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc. Ở mảnh đất hội tụ tinh hoa văn hóa bốn phương ấy, con người Thăng Long mang trong mình nét tài hoa, đa tài, đa nghệ, thấm đẫm bản sắc trí tuệ và tinh thần sáng tạo. Trong đó, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ - những người sinh ra, lớn lên hoặc gắn bó với Hà Nội đã góp phần tạo nên diện mạo văn hóa, nghệ thuật Thủ đô bằng nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, khẳng định sức sống trường tồn của văn hóa nghìn năm. Họ chính là nguồn lực đặc biệt không thể thiếu trong hành trình phát triển công nghiệp văn hóa của Hà Nội hôm nay.
  • Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong bối cảnh hội nhập
    Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết của các cấp, các ngành mà còn là sứ mệnh đặc biệt của đội ngũ văn nghệ sĩ Thủ đô. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, việc xác định rõ những trọng tâm trong xây dựng hệ giá trị văn hóa là hết sức cần thiết.
  • Những lưu dấu văn hóa về Hà Nội qua ngôn từ văn chương
    Ngay từ nền văn học Việt Nam trung đại, những trước tác về miền đất thiêng (đất thánh) Đông Đô - Thăng Long - Hà Nội đã được ghi khắc trong sử văn: “Chiếu dời đô” (thế kỷ XI) của Lý Công Uẩn, “Thượng kinh ký sự” (thế kỷ XVIII) của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, “Vũ trung tùy bút” (thế kỷ XIX) của Phạm Đình Hổ, “Long Thành cầm giả ca” (thế kỷ XIX) của Nguyễn Du, “Thăng Long thành hoài cổ” (thế kỷ XIX) của Bà Huyện Thanh Quan.
  • Hai thể thơ mới namkau và 1-2-3 trong lịch sử phát triển của các thể thơ dân tộc
    Khoảng mươi năm gần đây, trên thi đàn Việt xuất hiện hai thể thơ mới: namkau và 1-2-3. Là sản phẩm của thế kỷ công nghệ số, những thể thơ này còn đang ở thời kỳ phôi thai trứng nước.
  • Văn Cao, mùa bình thường...
    Văn Cao là một người tài hoa. Gọi ông là nhạc sĩ, thi sĩ hay họa sĩ đều được. Song tôi nghĩ, gọi ông là nhạc sĩ vẫn chuẩn xác hơn cả, bởi đó là điểm khởi đầu cũng là lĩnh vực ông bộc lộ tài năng nhất và cũng thành công nhất. Nhưng hãy khoan bàn về điều này, tôi muốn phác họa đôi nét về con người Văn Cao qua ấn tượng của mình sau hai lần gặp gỡ...
  • GS.TS Kiều Thu Hoạch: Người cần mẫn nghiên cứu văn hóa dân gian
    GS.TS Kiều Thu Hoạch năm nay bước sang tuổi 92. Đi qua hành trình gần trọn một thế kỷ, ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị. Đó là sự kết tinh trí tuệ của một học giả Hán Nôm uyên bác cùng hành trình trải nghiệm học thuật và cả sự tiếp xúc với các bậc túc nho nhiều thế hệ. Những công trình ấy đã mở ra nhiều hướng tiếp cận khả thi trong nghiên cứu lịch sử, văn hóa Việt Nam.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • “Tấu khúc lưỡng cực”: Đêm nhạc giao thoa văn hóa Việt - Đức
    Trong hai ngày 20 và 21/12, tại Nhà hát Hồ Gươm sẽ diễn ra chương trình hòa nhạc “Tấu khúc lưỡng cực - A Rhapsody of Two Worlds” do Hội Nhạc cổ điển Việt Nam tổ chức. Sự kiện mang ý nghĩa đặc biệt nhân kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Đức.
  • Chuyển đổi số - Cơ hội và thách thức với văn học nghệ thuật Thủ đô
    Trong bối cảnh chuyển đổi số đang trở thành xu thế tất yếu của mọi lĩnh vực đời sống, văn học nghệ thuật Thủ đô cũng đứng trước những vận hội lớn cùng không ít thách thức. Tọa đàm “Văn học nghệ thuật Thủ đô trong ứng dụng chuyển đổi số hiện nay” do Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội tổ chức sáng 5/12 đã góp phần nhận diện những chuyển động mạnh mẽ của đời sống văn học nghệ thuật trong môi trường số, đồng thời gợi mở những định hướng phát triển phù hợp với thực tiễn.
  • Múa bồng Triều Khúc và chèo tàu Tổng Gối: Di sản sống giữa lòng Thủ đô
    Sáng 4/12, Hội Văn nghệ Dân gian Hà Nội tổ chức cuộc tọa đàm “Diễn xướng dân gian trong lễ hội Hà Nội: Múa bồng Triều Khúc và chèo tàu Đan Phượng”. Qua phần trình bày của nhà nghiên cứu Giang Nguyên Bồi, họa sĩ Giang Nguyên Thái và Giám đốc Trung tâm Văn hóa Thể thao xã Ô Diên Bùi Thị Quyên, những giá trị lịch sử, đặc trưng nghệ thuật và hành trình bảo tồn, phát huy của hai loại hình diễn xướng dân gian độc đáo này đã được làm sáng rõ.
  • VinFuture 2025: Vinh danh 4 công trình khoa học "Cùng vươn mình - Cùng thịnh vượng
    Quỹ VinFuture chính thức công bố các Chủ nhân Giải thưởng VinFuture 2025. Bốn công trình khoa học công nghệ xuất sắc được vinh danh đã khẳng định nhất quán chủ điểm năm nay là “Cùng vươn mình – Cùng thịnh vượng”, thể hiện vai trò hợp tác khoa học xuyên biên giới để cùng giải quyết các thách thức toàn cầu về y tế, môi trường và sinh kế cho nhân loại.
  • Nâng cấp nền tảng siêu ứng dụng iHanoi: Hà Nội tăng tốc đến đô thị thông minh
    Nền tảng Công dân Thủ đô số - iHanoi vừa được HĐND Thành phố Hà Nội khóa XVI, nhiệm kỳ 2021 – 2026 phê duyệt là nền tảng số thống nhất phục vụ người dân, doanh nghiệp và hỗ trợ điều hành đô thị của Thành phố. Đây chính là hành động cụ thể hóa mục tiêu, giải pháp phát triển Thủ đô theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XVIII Đảng bộ Thành phố Hà Nội, nhiệm kỳ 2025 – 2030 đặt ra .
Đừng bỏ lỡ
Thao thức với phần đời chiến trận
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO