Lý luận - phê bình

Văn Cao, mùa bình thường...

Nguyễn Chu Nhạc 08:49 28/10/2025

Văn Cao là một người tài hoa. Gọi ông là nhạc sĩ, thi sĩ hay họa sĩ đều được. Song tôi nghĩ, gọi ông là nhạc sĩ vẫn chuẩn xác hơn cả, bởi đó là điểm khởi đầu cũng là lĩnh vực ông bộc lộ tài năng nhất và cũng thành công nhất. Nhưng hãy khoan bàn về điều này, tôi muốn phác họa đôi nét về con người Văn Cao qua ấn tượng của mình sau hai lần gặp gỡ...

anh-1.jpg
Nhạc sĩ Văn Cao qua ống kính NSNA Nguyễn Đình Toán

1 Lần đầu tôi gặp Văn Cao là mùa thu năm 1994, cách nay tròn ba mươi năm, trong dịp kỷ niệm 40 năm Ngày Giải phóng Thủ đô. Khi ấy, tôi là phóng viên chương trình Tạp chí Truyền thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam. Chúng tôi làm một chương trình đặc biệt dài 45 phút, tất nhiên không thể thiếu cuộc trò chuyện với Văn Cao về cảm hứng sáng tác ca khúc “Tiến về Hà Nội”.

Sau khi điện thoại liên hệ, được ông đồng ý cho cuộc hẹn, đúng giờ, tôi cùng nhà báo Trần Nhật Minh mang máy ghi âm đến nhà riêng của ông ở phố Yết Kiêu. Văn Cao và vợ - bà Thúy Băng đã chờ sẵn chúng tôi ở phòng khách. Ông ngồi trên chiếc ghế mây thấp, mặt hướng về cây đàn piano, trên bàn là một chén rượu nhỏ. Khi chúng tôi giới thiệu và đặt vấn đề, Văn Cao chậm rãi “Mình đồng ý, nhưng mà hẵng từ từ...” rồi nheo mắt hóm hỉnh: “Mình biết, các bạn thường thu rất nhiều, nhưng khi phát chỉ trích một chút thôi... Mình cứ kể, dùng thế nào là tùy hai bạn nhé.”

thua-luc-1137.jpg

Văn Cao cười nhẹ ra chiều thông cảm, nhấp một hớp rượu, trầm ngâm, cái nhìn xa xăm:“Đây là bài ca tôi hái lượm được trong chuyến đi thực tế ở khu 3. “Tiến về Hà Nội” được sáng tác từ năm 1949, mà mãi đến năm 1954 ta mới tiếp quản Thủ đô. Ngày ấy, chúng tôi sinh hoạt văn nghệ, vẽ tranh là chính. Vừa làm xong tranh thì có lệnh vào Tết năm 1949, khiến ai nấy đều hào hứng khác thường. Lúc đó, chúng tôi đang ở chợ Đại (Nam Hà), đêm đêm nhìn về, thấy quầng sáng hắt lên từ Hà Nội, nhớ lắm. Những người kháng chiến ra đi tháng rộng năm dài, mỗi khi tụ họp thường nhắc tới Hà Nội, thế nên mới có câu thơ của Quang Dũng: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Tuy mới nghe nói chuẩn bị tổng phản công, mà lòng ai cũng nghĩ sắp đến nơi rồi. Anh Chu Hà - Tổng biên tập báo Thủ đô cho gọi tôi cùng với anh em trong nội thành họp để nhận nhiệm vụ mới. Anh em ở tòa báo bảo tôi nên sáng tác ngay một bài hát về tổng phản công. Thế là tôi viết, thể hiện cái không khí hào hùng của Thủ đô, của chung dân tộc, mà cũng có chút mộng mơ của riêng mình. Hồi đó mộng mơ lắm... Chưa có không quân đã nghĩ tới không quân, chưa có hải quân cũng đã nghĩ đến hải quân... Có ai dám nghĩ rằng bài hát cho Tổng Liên đoàn lại thành bài ca của công nhân, bài “Chiến sĩ Việt Nam” lại như tiếng kèn xung trận... Dường như, những điều ấy luôn ẩn chứa ở người nghệ sĩ cách mạng trong sự sáng tạo của mình, nên bài hát viết từ năm 1949 nhưng 5 năm sau khi tiếp quản Thủ đô, tình hình giống như mình đã viết...” - Văn Cao lặng đi, thân hình khô gầy, cớm nắng của ông lút đi trong chiếc ghế mây, rồi ông chậm rãi như nói với chính mình, như thể không có ai đang ở bên cạnh ông: “Nếu viết những lời thơ mộng mà nói cảnh quân ta tiến về Hà Nội thì nhẹ nhàng quá... Hà Nội mình như một đài hoa mở ra năm cánh mà sương nhỏ vào từng cánh. Đoàn quân ấy trở về nhìn Hà Nội với con mắt như vậy... Và đoàn quân ấy sẽ ươm lại những vườn hoa đẹp cho Hà Nội sau này...”.

bia-1209.jpg
tac-pham-mua-xuan-dau-tien-cua-nhac-si-van-cao.jpg
tien-quan-ca.jpg
Một số minh họa & ca khúc của nhạc sĩ Văn Cao.

Rồi Văn Cao còn kể về ấn tượng trong ông năm 1984 khi Hà Nội kỷ niệm 30 năm ngày tiếp quản Thủ đô 10/10. Khi đó, ông đang ở Thái Bình. Nghe Đài Tiếng nói Việt Nam phát bài hát “Tiến về Hà Nội”, ông bỗng hình dung ra cảnh đoàn người đi quanh hồ Gươm và hát vang bài hát đó. Ông kể, có một nhạc sĩ ở châu Âu xưa từng được nhắc đến với câu chuyện: khi bản nhạc của ông vang lên thì cả thành phố đều nhảy, gọi là Tout la ville dance. Cũng bởi thế, Văn Cao đã gọi bài hát của mình là Tout la ville chante, nghĩa là bài hát cả thành phố đều hát.

Ấn tượng của tôi về Văn Cao là cái dáng còng còng, thân hình gầy guộc, gương mặt đầy nếp nhăn, mái tóc xòa bạc phơ. Vì chúng tôi dùng máy ghi âm chuyên dụng để phát sóng nên sau đó tôi đã rải băng, chỉ lược bỏ những chỗ ông ậm ừ nên tôi mới có được bản ghi lời ông kể về quá trình sáng tác ca khúc “Tiến về Hà Nội”.
Hôm ấy, Văn Cao còn đưa cho tôi xem và ký tặng một bài thơ ông mới sáng tác - bài “Tôi ở”, cùng poster ca khúc “Suối Mơ” với bút tích đề tặng. Đến nay, tôi vẫn giữ như những kỷ vật quý về một nghệ sĩ tài hoa. Xin chép lại bài thơ của ông: “Tôi ở/ Một căn nhà bên đầu ngọn suối/ Chỗ nước rỏ ra chính nơi tích tụ/ Và hình thành con suối./ Những mùa thay lá/ Những mùa cảm xúc/ Rừng vẫn bao dung với bóng lá trên đầu,/ Tôi sống/ Nhìn những chiếc lá trôi theo dòng nước/ Đến mùa gió Nam thổi/ Tôi lại đi theo những chiếc lá/ Phiêu du/ Tới bao giờ tôi gặp được biển. (Hà Nội, tháng Tám 1994)”.
Sau này, có ý kiến cho rằng, rất có thể “Tôi ở” là bài thơ cuối cùng của Văn Cao, bởi đến khi ông mất năm 1995, không thấy ông công bố thêm bài thơ nào khác. Không rõ trong di cảo của Văn Cao còn bài thơ nào được sáng tác sau đó hay không?

2 Không lâu sau lần gặp ấy, tôi lại có dịp gặp Văn Cao. Khi ấy, nhà thơ Trần Đăng Khoa vừa tốt nghiệp trường Gorky ở Nga, về đầu quân cho Văn nghệ Quân đội. Tôi hay ghé số 4 Lý Nam Đế để thăm Khoa. Trong một lần trò chuyện có nhắc đến Văn Cao, Khoa bày tỏ muốn gặp ông và nhờ tôi liên hệ giúp. Gọi điện đến nhà Văn Cao, biết Trần Đăng Khoa muốn đến thăm, ông đồng ý ngay, còn đùa: “Tôi cũng muốn gặp cậu ấy… xem mặt mũi sáng sủa thế nào… độ này thơ phú ra sao?”.

Theo hẹn, tôi đưa Trần Đăng Khoa đến gặp Văn Cao. Hai con người tài năng, một già một trẻ ấy, lần đầu gặp nhau đã chuyện vãn cả buổi sáng. Văn Cao hỏi Khoa về việc học hành ở nước ngoài, về thi ca... Phần mình, Khoa đưa ra những nhận xét rất tinh về ca khúc của Văn Cao. Thoáng chốc mà đã hết cả buổi. Tôi không thể nhớ hết, họ đã nói những gì, chỉ cảm nhận rằng tuy thuộc về hai thời kỳ khác nhau, song cả hai đều có điểm chung, ấy là tài năng âm nhạc và thi ca bẩm sinh, được phát lộ, thăng hoa nhờ thời đại, nhờ lịch sử đấu tranh giành tự do độc lập của dân tộc...

Qua cuộc chuyện trò ấy, tôi càng hiểu tấm lòng Văn Cao, cũng là tấm lòng của người trí thức một lòng đi theo cách mạng. Cũng chính vì lẽ đó, mà bài hát “Tiến quân ca” của ông đã được chọn làm Quốc ca; còn bài hát “Tiến về Hà Nội” cùng nhiều bài hát khác của ông đã trở thành bài ca cách mạng, để đến hôm nay, tuy ông không còn nữa, những bài ca ấy vẫn hiện diện và được nhiều người yêu thích.

Hôm ấy, Văn Cao và Trần Đăng Khoa còn trò chuyện nhiều về thơ và hội họa. Ra về, Khoa nhận xét: Văn Cao là người đa tài, âm nhạc, thơ ca và hội họa đều thạo, nhưng nổi bật và thành công hơn cả là âm nhạc. Có thể nói, trong nền âm nhạc Việt Nam hiện đại, ông là nhạc sĩ tài năng hàng đầu. Riêng về thơ, Văn Cao viết không nhiều, khá chắt lọc, nhưng ông thuộc lớp tác giả tiên phong đổi mới thi ca. Ngay từ năm 1956, với trường ca Văn Cao “Những người ra đi từ cửa biển” viết về Hải Phòng, ông đã được nhìn nhận là người sớm cách tân thơ bằng lối thơ không vần nhưng giàu hình ảnh và âm điệu. Điều đó cho thấy ông chủ trương trình diện một lối thơ riêng, để sau này có một Văn Cao - thơ, khác biệt và độc đáo.

tac-pham-tien-ve-ha-noi-cua-nhac-si-van-cao..jpg

Tôi cơ bản đồng ý với nhận định của Trần Đăng Khoa về Văn Cao. Tôi nghĩ, sự nghiệp của Văn Cao là âm nhạc. Ở lĩnh vực này, ông thực sự tài năng, được khẳng định. Còn thơ ca và hội họa của ông chỉ là cách ông “thi hóa” và “hình hóa” âm nhạc của mình mà thôi.
Trước hết về âm nhạc, các ca khúc “Buồn tàn thu”, “Cung đàn xưa”, “Đàn chim Việt”, “Đống Đa”, “Bạch Đằng giang”, “Thăng Long hành khúc”, “Suối mơ”, “Thiên thai”, “Trương Chi”, “Thu cô liêu”… đã sớm làm nên tên tuổi Văn Cao. Đặc biệt, những ca khúc cách mạng và kháng chiến càng làm ông nổi bật như “Tiến quân ca” (sau là Quốc ca Việt Nam), “Bắc Sơn”, “Ca ngợi Hồ Chủ tịch”, “Chiến sĩ Việt Nam”, “Làng tôi”, “Ngày mùa”, “Sông Lô”, “Tiến về Hà Nội”… và sau này là “Mùa xuân đầu tiên”. Tài năng và nổi tiếng như vậy, có những đóng góp lớn cho âm nhạc Việt Nam thời tiền chiến cũng như trong cách mạng, kháng chiến chống thực dân Pháp nhưng Văn Cao lại gặp vấn đề về tư tưởng khiến sự nghiệp âm nhạc của ông khựng lại. Có lẽ vậy, sự thăng hoa về âm nhạc của Văn Cao có cơ hội chuyển dần sang thơ và họa. Sáng tác thơ và họa của ông cũng rất khác người.

Thực ra, Văn Cao làm thơ như ông viết lời cho ca khúc vậy. Trong số các nhạc sĩ sáng tác nhạc mới ở ta thì Văn Cao và Trịnh Công Sơn là hai trong số ít người không phổ thơ người khác mà tự viết lời cho ca khúc của mình. Nhiều ca khúc của họ, nếu bóc tách riêng phần lời, có thể đứng vững như một bài thơ. Chính vì thế, đọc thơ Văn Cao, tuy không vần nhưng giàu âm điệu. Còn hội họa, tôi không được xem tranh màu nước hay sơn dầu của ông nên không dám bàn. Tuy nhiên, để ý các ký họa, phác thảo minh họa cho báo, tôi nhận thấy ông không chỉ minh họa đơn thuần cho nội dung câu chuyện mà phóng bút theo cảm hứng từ sự liên tưởng của mình. Ấy cũng là khác người rồi.

Trở lại với thơ. Trước hết, với tư cách người làm thơ, Văn Cao là một trong những nhà thơ tiên phong về thơ không vần. Tuy nhiên, là nhạc sĩ tự viết lời cho ca khúc của mình nên ông làm thơ không mấy khác việc viết lời cho ca khúc. Thơ không vần của Văn Cao giàu hình ảnh và nhạc điệu, tạo nên một bản sắc riêng. Cứ đọc phần lời các ca khúc của ông, nhất là giai đoạn đầu đến với tân nhạc và thời tiền chiến, bóc tách lời mỗi ca khúc của ông đều thành thơ cả. Sau này, trong thời kháng chiến, thơ với nhạc của ông quấn quện với nhau như hình với bóng. Hãy đọc lời các ca khúc “Làng tôi”, “Ngày mùa” và trường ca “Sông Lô”… lời đẹp như thơ, đúng hơn là thơ.
Hơn một lần, tôi nghe nhà thơ Trần Đăng Khoa khen ca khúc “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao. Thực ra, về chất liệu âm nhạc, ca khúc này không mới mẻ hay trội bật hơn nhiều sáng tác khác của ông, song về ý tưởng và lời ca, nó thật sự khác người. Ca khúc được sáng tác sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước năm 1975. Vậy mà mười năm sau, ca khúc này mới được phổ biến, phát sóng. Hẳn rằng phải có lý do. Trong khi mọi người, nhất là giới văn nghệ sĩ, đều ngợi ca cách mạng bằng những mỹ từ rực rỡ, thì Văn Cao lại gọi đó là “mùa bình thường”. Vĩ đại là thế, mà ông chỉ nói bình thường, liệu có được chấp nhận không? Song, đó mới chính là Văn Cao. Hãy nghe ông lý giải qua lời ca: “Rồi dập dìu mùa xuân theo én về, mùa bình thường mùa vui nay đã về, mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên với khói bay trên song, gà đang gáy trưa bên sông, một trưa nắng vui cho bao tâm hồn,… một cuộc đời êm ấm, từ đây người biết quê người, từ đây người biết thương người, từ đây biết yêu người…”.
Thực tình, tôi muốn nêu trọn vẹn lời ca khúc ra đây để thấy rõ cái tài Văn Cao khi ông viết lời thơ cho ca khúc này của minh… Thiên nhiên muôn đời là vậy, vô tư luân chuyển các mùa với bao cảnh sắc theo đó, ấy là cái lẽ của mùa bình thường. Nguyễn Du từng viết “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, cảnh buồn hay vui là từ lòng người mà ra cả đấy. Mùa xuân đầu tiên sau chiến tranh, lòng người hân hoan nên nhìn thiên nhiên, vạn vật cũng vui theo. Cần gì phải dùng những mỹ từ, những từ ngữ đao to búa lớn để diễn đạt. Văn Cao là vậy, nhỏ nhẹ khoan hòa là cái “tạng” mà cũng là cái “tài” của riêng ông, làm nên khí chất con người ông chăng?

Bài liên quan
  • Có một mùa thu vẫn còn thơ bé
    Khi những vạt nắng xanh non tháng Chín lung linh nhảy múa bên thềm nhà, bọn trẻ con đã bắt đầu vào năm học mới, lòng tôi lại rộn lên những cảm xúc bâng khuâng khó tả. Trong tâm trí, tôi thấy nhảy nhót những trang sách giáo khoa thời tiểu học, với hình ảnh con gà, con mèo, bắp cải, con trâu... lần lượt ùa về.
(0) Bình luận
  • GS.TS Kiều Thu Hoạch: Người cần mẫn nghiên cứu văn hóa dân gian
    GS.TS Kiều Thu Hoạch năm nay bước sang tuổi 92. Đi qua hành trình gần trọn một thế kỷ, ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị. Đó là sự kết tinh trí tuệ của một học giả Hán Nôm uyên bác cùng hành trình trải nghiệm học thuật và cả sự tiếp xúc với các bậc túc nho nhiều thế hệ. Những công trình ấy đã mở ra nhiều hướng tiếp cận khả thi trong nghiên cứu lịch sử, văn hóa Việt Nam.
  • Miền ký ức vọng về từ mùa thu Hà Nội
    Thủ đô Hà Nội mùa nào cũng đẹp, nhưng có lẽ đẹp nhất vẫn là mùa thu. Trong nhiều thi phẩm viết về Hà Nội, “Mùa thu về Hà Nội” của Mạc Phương là một bài thơ giàu chất trữ tình, gợi mở bức tranh mùa thu thơ mộng, đồng thời chan chứa nỗi niềm yêu thương, hoài niệm về một mối tình xưa.
  • Có một mùa thu vẫn còn thơ bé
    Khi những vạt nắng xanh non tháng Chín lung linh nhảy múa bên thềm nhà, bọn trẻ con đã bắt đầu vào năm học mới, lòng tôi lại rộn lên những cảm xúc bâng khuâng khó tả. Trong tâm trí, tôi thấy nhảy nhót những trang sách giáo khoa thời tiểu học, với hình ảnh con gà, con mèo, bắp cải, con trâu... lần lượt ùa về.
  • Để văn học Thủ đô tiếp tục khẳng định vị thế
    Song hành với thành tựu phát triển kinh tế, chính trị của Thủ đô 80 năm qua, Thành phố Hà Nội đang nỗ lực xây dựng hình ảnh một đô thị thanh lịch, văn minh, trong đó chiều sâu văn hóa được thể hiện qua các tác phẩm văn học nghệ thuật (VHNT) gắn bó với đời sống nhân dân Thủ đô. Nói riêng về diện mạo văn học, bên cạnh những thành tựu to lớn mà các nhà văn Hà Nội đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ thì các tác phẩm văn học có quy mô và chất lượng cao ở thời kỳ đổi mới vẫn còn thưa vắng, thậm chí mờ nhạt. Nhìn lại chặng đường sáng tạo văn chương của các nhà văn dưới mái nhà chung - Hội Nhà văn Hà Nội, đặc biệt trong 20 năm trở lại đây có thể thấy rõ điều đó.
  • Cảnh và tình trong thơ Nguyễn Trọng Nghĩa
    “Chuyện hàng rào có hoa” đã mở ra một viễn cảnh giữa bề bộn của cuộc sống nơi hàng rào đầy tĩnh lặng. Sự sống cấp tập, chen lấn. Nhưng trong chớp mắt, một khoảng không ùa ra, tua tủa những mầm tươi nõn ngỡ như từ một thế giới khác hiện hình, thẳm xa hừng lên. Thảng thốt trước màn ảnh sân khấu khổng lồ, ngần sáng, các cảnh sắc và các nhân vật chính diện cứ tự nhiên hoá tình, đánh thức kỷ niệm, tưởng như trong cổ tích bước tới.
  • Âm nhạc Thủ đô - 80 năm đồng hành cùng dân tộc
    Trong suốt chiều dài lịch sử, đặc biệt là 80 năm qua, văn học nghệ thuật Thủ đô luôn đồng hành cùng dân tộc trên mọi chặng đường lịch sử: từ những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám sục sôi khí thế, qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, đến công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước hiện nay. Trong bức tranh chung ấy, âm nhạc Thủ đô Hà Nội giữ một vai trò đặc biệt: vừa là tiếng nói của tâm hồn dân tộc nói chung, tiếng nói “Người Hà Nội” nói riêng, vừa là vũ khí tinh thần sắc bén thôi thúc từng đoàn quân ra trận để bảo vệ Thủ đô, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, dân tộc.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
  • Xã Ô Diên đẩy mạnh phổ biến, giáo dục pháp luật, lối sống văn hóa cho thanh thiếu niên
    Thực hiện Kế hoạch của UBND Thành phố Hà Nội, chính quyền xã Ô Diên vừa có Kế hoạch đẩy mạnh phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của thanh thiếu niên; gắn giáo dục pháp luật với giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống văn hóa giai đoạn 2025 - 2030 trên địa bàn xã khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.
  • Hà Nội giành danh hiệu “Thành phố Ẩm thực mới nổi tốt nhất châu Á”
    Tại lễ trao Giải thưởng Ẩm thực Thế giới 2025 ở Italy, Việt Nam được vinh danh “Điểm đến Ẩm thực tốt nhất châu Á”; Thành phố Hà Nội giành danh hiệu “Thành phố Ẩm thực mới nổi tốt nhất châu Á”.
  • Tiệc bánh trôi ở đền Hát Môn
    Đền Hát Môn (nơi thờ Hai Bà Trưng), tọa lạc dưới chân đê sông Hát, thuộc xã Hát Môn, TP Hà Nội. Trước đây, hằng năm dân làng tổ chức lễ hội tại đền ba lần, vào các ngày mùng 8 tháng Ba, mùng 4 tháng Chín và 24 tháng Chạp âm lịch.
  • Học viện Âm nhạc Huế góp phần gìn giữ, bảo tồn và phát huy tinh hoa âm nhạc truyền thống
    Học viện Âm nhạc Huế mạnh dạn đổi mới, hội nhập với dòng chảy nghệ thuật đương đại và trong suốt chặng đường phát triển đã góp phần quan trọng vào việc gìn giữ, bảo tồn và phát huy tinh hoa âm nhạc truyền thống.
  • Hà Nội - Còn mãi với thời gian
    Liên hoan ảnh nghệ thuật khu vực Hà Nội lần thứ 12 năm 2025 với chủ đề “Hà Nội - Còn mãi với thời gian” vừa diễn ra tại không gian vườn hoa Hàng Trống (Hoàn Kiếm, Hà Nội), thu hút sự quan tâm của giới nghệ thuật và đông đảo công chúng. Đây là hoạt động thường niên do Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam tổ chức, đồng thời là dịp để các tay máy Thủ đô giới thiệu những góc nhìn mới mẻ, đa chiều về mảnh đất ngàn năm văn hiến.
  • Văn Miếu Huế trước khi tu bổ, tôn tạo và phục hồi
    UBND TP Huế đã phê duyệt kinh phí 132 tỷ đồng tu bổ, tôn tạo và phục hồi di tích Văn Miếu và dự kiến khởi công trong quý IV/2025.
  • 30 nữ họa sĩ Bắc - Trung - Nam hội tụ tại triển lãm tranh "Về miền đất đỏ"
    Đây là cuộc triển lãm lần thứ 11, quy tụ 30 nữ họa sĩ đến từ ba miền Bắc - Trung - Nam với gần 50 tác phẩm sáng tác trên nhiều chất liệu như sơn dầu, sơn mài, acrylic, khắc gỗ, giấy dó...
  • Ra mắt cuốn sách “Thơ dịch tuyển chọn - 2025”
    Năm 2025 đánh dấu chặng đường 28 năm hình thành và phát triển của Câu lạc bộ Thơ dịch Hội Nhà văn Hà Nội. Cũng như những năm trước, “Thơ dịch tuyển chọn - 2025” tiếp tục ghi nhận bước tiến vững chắc của một câu lạc bộ có bề dày truyền thống và hoạt động dịch thuật sôi nổi.
  • Cuộc đời và sự nghiệp “Tứ triều nguyên lão” Lễ Trai Đặng Văn Hòa - hiện thân của mẫu nhà Nho quân tử
    Các nhà chuyên gia tại Hội thảo khoa học “Lễ Trai Đặng Văn Hòa – Cuộc đời và sự nghiệp” tập trung vào thảo luận “Thân thế, cuộc đời và sự nghiệp”, “Những đóng góp đối với lịch sử, văn hóa dân tộc và” “Di sản, bảo tồn, phát huy giá trị liên quan đến nhân vật lịch sử Đặng Văn Hòa”.
  • Festival Thăng Long - Hà Nội 2025: Dòng chảy di sản giữa lòng Thủ đô
    “Festival Thăng Long - Hà Nội 2025” sẽ diễn ra trong 16 ngày, với nhiều hoạt động sôi nổi, nhằm tôn vinh những giá trị văn hóa của Thủ đô. Qua đó, lan tỏa tinh thần "Di sản-Kết nối-Thời đại", khẳng định vị thế của Hà Nội trong Mạng lưới các thành phố sáng tạo của UNESCO.
Văn Cao, mùa bình thường...
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO