Lý luận - phê bình

Có một mùa thu vẫn còn thơ bé

Lời bình của Kim Loan 07:10 23/09/2025

Khi những vạt nắng xanh non tháng Chín lung linh nhảy múa bên thềm nhà, bọn trẻ con đã bắt đầu vào năm học mới, lòng tôi lại rộn lên những cảm xúc bâng khuâng khó tả. Trong tâm trí, tôi thấy nhảy nhót những trang sách giáo khoa thời tiểu học, với hình ảnh con gà, con mèo, bắp cải, con trâu... lần lượt ùa về.

maxresdefault.jpg

Mùa thu của em

Là vàng hoa cúc
Như nghìn con mắt
Mở nhìn trời êm.

Mùa thu của em
Là xanh cốm mới
Mùi hương như gợi
Từ màu lá sen

Mùa thu của em
Rước đèn họp bạn
Hội rằm tháng Tám
Chị Hằng xuống xem.

Ngôi trường thân quen
Bạn thầy mong đợi
Lật trang vở mới
Em vào mùa thu.

Quang Huy

Khi những vạt nắng xanh non tháng Chín lung linh nhảy múa bên thềm nhà, bọn trẻ con đã bắt đầu vào năm học mới, lòng tôi lại rộn lên những cảm xúc bâng khuâng khó tả. Trong tâm trí, tôi thấy nhảy nhót những trang sách giáo khoa thời tiểu học, với hình ảnh con gà, con mèo, bắp cải, con trâu... lần lượt ùa về. “Thước phim” chợt dừng lại ở trang sách có hình ảnh một đoàn em bé rước đèn trung thu, đó chính là trang có bài thơ “Mùa thu của em” của tác giả Quang Huy, trong sách Tiếng Việt lớp 3 thì phải. Đã mấy mươi năm rồi mà tôi vẫn thuộc nằm lòng, có thể đọc một hơi từ đầu đến cuối. Bài thơ “Mùa thu của em” là một trong những bài thơ hay viết về mùa thu dưới con mắt trẻ thơ, đồng thời cũng là kỷ niệm tuổi thơ của bao thế hệ học trò dưới mái trường yêu dấu.

Mùa thu có lẽ là mùa đẹp nhất trong năm, biết bao thi nhân đã ca tụng mùa thu bằng rất nhiều ngôn từ hoa mỹ. Nhưng bài thơ “Mùa thu của em” lại mang đến một góc nhìn khác - mùa thu qua ánh mắt trẻ thơ. Mở đầu bài thơ, ta đã thấy ngay nét đẹp dịu dàng, trong sáng như hoa lung linh dưới nắng:

Mùa thu của em
Là vàng hoa cúc
Như nghìn con mắt
Mở nhìn trời êm.

Hình ảnh hoa cúc vốn không xa lạ trong những áng văn thơ viết về mùa thu, nhưng ở đây tác giả thật tài tình khi mường tượng những cánh hoa nhỏ xếp tròn xoe như nghìn đôi mắt trẻ thơ háo hức ngắm nhìn bầu trời rộng mở. Và chỉ một chữ “êm” cũng đủ gợi cho ta cảm giác bình yên, nơi có gió thoảng, mây bay, tiếng chim líu lo bên hiên nhà lá rụng.

Nói đến mùa thu của trẻ thơ không thể thiếu những thức quà đặc biệt từ đôi bàn tay khéo léo của bà, của mẹ. Và một trong những món gây thương nhớ chính là cốm - một đặc sản mùa thu, vừa đẹp lại vừa thơm:

Mùa thu của em
Là xanh cốm mới
Mùi hương như gợi
Từ màu lá sen.

Đọc những câu thơ này, trong đầu tôi lại hiện lên hình ảnh các bà, các cô bán cốm trong những con ngõ phố cổ. Trong tiết trời thu dịu mát, màu của cốm được nhuộm từ màu xanh của lá lúa non càng trở nên dịu mát hơn. Hương cốm gợi nhớ màu lá sen. Tác giả đã thật tao nhã khi dùng chữ “gợi” - chỉ là “gợi” thôi mà đã thấy thơm ngất ngây rồi, “gợi” cũng nhẹ nhàng, thanh tao như mùa thu. Nghĩ đến cốm, tôi lại thấy cả cánh đồng lúa non, bởi cốm là kết tinh từ hạt lúa được chắt chiu từ những hạt lúa thơm trên cánh đồng gió ru nhè nhẹ. Khi ấy, sen thu sắp tàn, lá từ xanh non chuyển sang xanh ngọc, gợi nét trầm mặc của hồ thu yên ả. Lá sen gói cốm để lưu giữ độ mềm thơm - một sự xinh đẹp, thơm tho này gói trong một sự xinh đẹp, thơm tho khác, chỉ mùa thu mới có. Và tác giả đã gói trọn trong những câu thơ cũng không kém phần duyên dáng.

Có lẽ thiên nhiên đã ưu ái mùa thu hơn khi cái gì cũng đẹp. Với trẻ thơ ngày xưa, được chơi đùa trong những đêm trăng sáng thật tuyệt vời. Chắc hẳn tác giả cũng như tôi, vô cùng háo hức chờ đợi đến ngày trăng tròn nhất:

Mùa thu của em
Rước đèn họp bạn
Hội rằm tháng Tám
Chị Hằng xuống xem.

Ngày ấy chưa có điện, những đêm trăng là thiên đường của bọn trẻ con. Tết Trung thu lại càng náo nức: được tụ họp chơi đùa, phá cỗ cùng chúng bạn. Đọc đến khổ thơ này, trong tâm trí tôi hiện lên hình ảnh đám trẻ rồng rắn nối đuôi nhau, vừa đi vừa hát vang những bài đồng dao. Những lồng đèn xanh xanh đỏ đỏ hình ông sao, cá chép... do cha mẹ, anh chị làm cho, đứa nào cũng nâng niu như báu vật. Đêm Trung thu, bọn trẻ thức thật khuya, dõi theo tiếng trống múa lân tan dần cuối xóm. Trong giấc mơ thơ bé, chị Hằng hiện lên với chiếc đũa phép và bộ váy voan lộng lẫy. Chỉ bốn câu thôi đã gợi biết bao kỷ niệm, gom trọn niềm vui trẻ thơ vào mùa thu.

Mùa thu cũng chính là mùa khai trường, được trẻ em mong đợi suốt ba tháng hè xa thầy cô, bè bạn. Tôi còn nhớ rất rõ cảm giác háo hức khi chuẩn bị vào năm học mới với áo trắng, khăn quàng đỏ, sân trường rợp lá cờ bay:

Ngôi trường thân quen
Bạn thầy mong đợi
Lật trang vở mới
Em vào mùa thu.

Đó cũng là những câu cuối của bài thơ “Mùa thu của em” mà tác giả Quang Huy đã viết khoảng năm 1980 để tặng con trai đầu Quang Anh khi cậu bé vừa tròn 7 tuổi, bắt đầu chập chững vào lớp 1. Với thể thơ bốn chữ và nhịp điệu vui tươi, bài thơ đã có tuổi đời hơn bốn mươi năm nhưng mỗi khi đọc lại, ta vẫn thấy mùa thu tươi mới quanh mình, rộn ràng cảm xúc. Đó là sự tươi vui xen lẫn những bâng khuâng hoài niệm.

Thêm một mùa thu lại về, bao thế hệ học sinh Việt Nam đã đi qua mùa thu với bài thơ này. Và biết đâu, sau này, con cháu chúng ta lại nhắc với thế hệ sau về một bài thơ mùa thu trong sách giáo khoa, một mùa thu vẫn còn thơ bé./.

Bài liên quan
  • Để văn học Thủ đô tiếp tục khẳng định vị thế
    Song hành với thành tựu phát triển kinh tế, chính trị của Thủ đô 80 năm qua, Thành phố Hà Nội đang nỗ lực xây dựng hình ảnh một đô thị thanh lịch, văn minh, trong đó chiều sâu văn hóa được thể hiện qua các tác phẩm văn học nghệ thuật (VHNT) gắn bó với đời sống nhân dân Thủ đô. Nói riêng về diện mạo văn học, bên cạnh những thành tựu to lớn mà các nhà văn Hà Nội đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ thì các tác phẩm văn học có quy mô và chất lượng cao ở thời kỳ đổi mới vẫn còn thưa vắng, thậm chí mờ nhạt. Nhìn lại chặng đường sáng tạo văn chương của các nhà văn dưới mái nhà chung - Hội Nhà văn Hà Nội, đặc biệt trong 20 năm trở lại đây có thể thấy rõ điều đó.
(0) Bình luận
  • Ngô Thanh Vân, vẻ đẹp kỳ diệu của nỗi buồn
    Người xưa rất coi trọng phần nội tâm (tình) trong thơ. Không có văn bản văn học nào thể hiện cái tôi cá nhân rõ như thơ. Nói như nhà văn Trịnh Bích Ngân: “Thơ không chịu được sự che đậy... Dũng cảm phơi bày. Chân thành phơi bày”.
  • Thao thức với phần đời chiến trận
    Có thể nói cuộc kháng chiến trường kỳ hào hùng và bi tráng của dân tộc, ở bất kỳ trạng huống nào dường như đã chi phối và tạo động lực cho đội ngũ văn nghệ sĩ, những người cầm bút suy nghĩ và sáng tạo. Ta hiểu vì sao ngay trong cuộc sống thời bình, trong đời sống dân sự, những hình ảnh của ngày hôm qua vẫn khiến con người luôn “thao thức với phần đời chiến trận”.
  • Phát huy vai trò của văn nghệ sĩ Thủ đô trong phát triển công nghiệp văn hóa
    Hà Nội - Thủ đô tự nhiên của lưu vực sông Hồng, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước từ ngàn xưa đã là nơi hội tụ và đào luyện nhân tài. Phần lớn danh nhân Việt Nam từng sống, làm việc, sáng tạo ở Thăng Long - Hà Nội, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc. Ở mảnh đất hội tụ tinh hoa văn hóa bốn phương ấy, con người Thăng Long mang trong mình nét tài hoa, đa tài, đa nghệ, thấm đẫm bản sắc trí tuệ và tinh thần sáng tạo. Trong đó, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ - những người sinh ra, lớn lên hoặc gắn bó với Hà Nội đã góp phần tạo nên diện mạo văn hóa, nghệ thuật Thủ đô bằng nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, khẳng định sức sống trường tồn của văn hóa nghìn năm. Họ chính là nguồn lực đặc biệt không thể thiếu trong hành trình phát triển công nghiệp văn hóa của Hà Nội hôm nay.
  • Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong bối cảnh hội nhập
    Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết của các cấp, các ngành mà còn là sứ mệnh đặc biệt của đội ngũ văn nghệ sĩ Thủ đô. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, việc xác định rõ những trọng tâm trong xây dựng hệ giá trị văn hóa là hết sức cần thiết.
  • Những lưu dấu văn hóa về Hà Nội qua ngôn từ văn chương
    Ngay từ nền văn học Việt Nam trung đại, những trước tác về miền đất thiêng (đất thánh) Đông Đô - Thăng Long - Hà Nội đã được ghi khắc trong sử văn: “Chiếu dời đô” (thế kỷ XI) của Lý Công Uẩn, “Thượng kinh ký sự” (thế kỷ XVIII) của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, “Vũ trung tùy bút” (thế kỷ XIX) của Phạm Đình Hổ, “Long Thành cầm giả ca” (thế kỷ XIX) của Nguyễn Du, “Thăng Long thành hoài cổ” (thế kỷ XIX) của Bà Huyện Thanh Quan.
  • Hai thể thơ mới namkau và 1-2-3 trong lịch sử phát triển của các thể thơ dân tộc
    Khoảng mươi năm gần đây, trên thi đàn Việt xuất hiện hai thể thơ mới: namkau và 1-2-3. Là sản phẩm của thế kỷ công nghệ số, những thể thơ này còn đang ở thời kỳ phôi thai trứng nước.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
Có một mùa thu vẫn còn thơ bé
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO