Văn Cao, mùa bình thường...
Văn Cao là một người tài hoa. Gọi ông là nhạc sĩ, thi sĩ hay họa sĩ đều được. Song tôi nghĩ, gọi ông là nhạc sĩ vẫn chuẩn xác hơn cả, bởi đó là điểm khởi đầu cũng là lĩnh vực ông bộc lộ tài năng nhất và cũng thành công nhất. Nhưng hãy khoan bàn về điều này, tôi muốn phác họa đôi nét về con người Văn Cao qua ấn tượng của mình sau hai lần gặp gỡ...

1 Lần đầu tôi gặp Văn Cao là mùa thu năm 1994, cách nay tròn ba mươi năm, trong dịp kỷ niệm 40 năm Ngày Giải phóng Thủ đô. Khi ấy, tôi là phóng viên chương trình Tạp chí Truyền thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam. Chúng tôi làm một chương trình đặc biệt dài 45 phút, tất nhiên không thể thiếu cuộc trò chuyện với Văn Cao về cảm hứng sáng tác ca khúc “Tiến về Hà Nội”.
Sau khi điện thoại liên hệ, được ông đồng ý cho cuộc hẹn, đúng giờ, tôi cùng nhà báo Trần Nhật Minh mang máy ghi âm đến nhà riêng của ông ở phố Yết Kiêu. Văn Cao và vợ - bà Thúy Băng đã chờ sẵn chúng tôi ở phòng khách. Ông ngồi trên chiếc ghế mây thấp, mặt hướng về cây đàn piano, trên bàn là một chén rượu nhỏ. Khi chúng tôi giới thiệu và đặt vấn đề, Văn Cao chậm rãi “Mình đồng ý, nhưng mà hẵng từ từ...” rồi nheo mắt hóm hỉnh: “Mình biết, các bạn thường thu rất nhiều, nhưng khi phát chỉ trích một chút thôi... Mình cứ kể, dùng thế nào là tùy hai bạn nhé.”

Văn Cao cười nhẹ ra chiều thông cảm, nhấp một hớp rượu, trầm ngâm, cái nhìn xa xăm:“Đây là bài ca tôi hái lượm được trong chuyến đi thực tế ở khu 3. “Tiến về Hà Nội” được sáng tác từ năm 1949, mà mãi đến năm 1954 ta mới tiếp quản Thủ đô. Ngày ấy, chúng tôi sinh hoạt văn nghệ, vẽ tranh là chính. Vừa làm xong tranh thì có lệnh vào Tết năm 1949, khiến ai nấy đều hào hứng khác thường. Lúc đó, chúng tôi đang ở chợ Đại (Nam Hà), đêm đêm nhìn về, thấy quầng sáng hắt lên từ Hà Nội, nhớ lắm. Những người kháng chiến ra đi tháng rộng năm dài, mỗi khi tụ họp thường nhắc tới Hà Nội, thế nên mới có câu thơ của Quang Dũng: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Tuy mới nghe nói chuẩn bị tổng phản công, mà lòng ai cũng nghĩ sắp đến nơi rồi. Anh Chu Hà - Tổng biên tập báo Thủ đô cho gọi tôi cùng với anh em trong nội thành họp để nhận nhiệm vụ mới. Anh em ở tòa báo bảo tôi nên sáng tác ngay một bài hát về tổng phản công. Thế là tôi viết, thể hiện cái không khí hào hùng của Thủ đô, của chung dân tộc, mà cũng có chút mộng mơ của riêng mình. Hồi đó mộng mơ lắm... Chưa có không quân đã nghĩ tới không quân, chưa có hải quân cũng đã nghĩ đến hải quân... Có ai dám nghĩ rằng bài hát cho Tổng Liên đoàn lại thành bài ca của công nhân, bài “Chiến sĩ Việt Nam” lại như tiếng kèn xung trận... Dường như, những điều ấy luôn ẩn chứa ở người nghệ sĩ cách mạng trong sự sáng tạo của mình, nên bài hát viết từ năm 1949 nhưng 5 năm sau khi tiếp quản Thủ đô, tình hình giống như mình đã viết...” - Văn Cao lặng đi, thân hình khô gầy, cớm nắng của ông lút đi trong chiếc ghế mây, rồi ông chậm rãi như nói với chính mình, như thể không có ai đang ở bên cạnh ông: “Nếu viết những lời thơ mộng mà nói cảnh quân ta tiến về Hà Nội thì nhẹ nhàng quá... Hà Nội mình như một đài hoa mở ra năm cánh mà sương nhỏ vào từng cánh. Đoàn quân ấy trở về nhìn Hà Nội với con mắt như vậy... Và đoàn quân ấy sẽ ươm lại những vườn hoa đẹp cho Hà Nội sau này...”.



Rồi Văn Cao còn kể về ấn tượng trong ông năm 1984 khi Hà Nội kỷ niệm 30 năm ngày tiếp quản Thủ đô 10/10. Khi đó, ông đang ở Thái Bình. Nghe Đài Tiếng nói Việt Nam phát bài hát “Tiến về Hà Nội”, ông bỗng hình dung ra cảnh đoàn người đi quanh hồ Gươm và hát vang bài hát đó. Ông kể, có một nhạc sĩ ở châu Âu xưa từng được nhắc đến với câu chuyện: khi bản nhạc của ông vang lên thì cả thành phố đều nhảy, gọi là Tout la ville dance. Cũng bởi thế, Văn Cao đã gọi bài hát của mình là Tout la ville chante, nghĩa là bài hát cả thành phố đều hát.
Ấn tượng của tôi về Văn Cao là cái dáng còng còng, thân hình gầy guộc, gương mặt đầy nếp nhăn, mái tóc xòa bạc phơ. Vì chúng tôi dùng máy ghi âm chuyên dụng để phát sóng nên sau đó tôi đã rải băng, chỉ lược bỏ những chỗ ông ậm ừ nên tôi mới có được bản ghi lời ông kể về quá trình sáng tác ca khúc “Tiến về Hà Nội”.
Hôm ấy, Văn Cao còn đưa cho tôi xem và ký tặng một bài thơ ông mới sáng tác - bài “Tôi ở”, cùng poster ca khúc “Suối Mơ” với bút tích đề tặng. Đến nay, tôi vẫn giữ như những kỷ vật quý về một nghệ sĩ tài hoa. Xin chép lại bài thơ của ông: “Tôi ở/ Một căn nhà bên đầu ngọn suối/ Chỗ nước rỏ ra chính nơi tích tụ/ Và hình thành con suối./ Những mùa thay lá/ Những mùa cảm xúc/ Rừng vẫn bao dung với bóng lá trên đầu,/ Tôi sống/ Nhìn những chiếc lá trôi theo dòng nước/ Đến mùa gió Nam thổi/ Tôi lại đi theo những chiếc lá/ Phiêu du/ Tới bao giờ tôi gặp được biển. (Hà Nội, tháng Tám 1994)”.
Sau này, có ý kiến cho rằng, rất có thể “Tôi ở” là bài thơ cuối cùng của Văn Cao, bởi đến khi ông mất năm 1995, không thấy ông công bố thêm bài thơ nào khác. Không rõ trong di cảo của Văn Cao còn bài thơ nào được sáng tác sau đó hay không?
2 Không lâu sau lần gặp ấy, tôi lại có dịp gặp Văn Cao. Khi ấy, nhà thơ Trần Đăng Khoa vừa tốt nghiệp trường Gorky ở Nga, về đầu quân cho Văn nghệ Quân đội. Tôi hay ghé số 4 Lý Nam Đế để thăm Khoa. Trong một lần trò chuyện có nhắc đến Văn Cao, Khoa bày tỏ muốn gặp ông và nhờ tôi liên hệ giúp. Gọi điện đến nhà Văn Cao, biết Trần Đăng Khoa muốn đến thăm, ông đồng ý ngay, còn đùa: “Tôi cũng muốn gặp cậu ấy… xem mặt mũi sáng sủa thế nào… độ này thơ phú ra sao?”.
Theo hẹn, tôi đưa Trần Đăng Khoa đến gặp Văn Cao. Hai con người tài năng, một già một trẻ ấy, lần đầu gặp nhau đã chuyện vãn cả buổi sáng. Văn Cao hỏi Khoa về việc học hành ở nước ngoài, về thi ca... Phần mình, Khoa đưa ra những nhận xét rất tinh về ca khúc của Văn Cao. Thoáng chốc mà đã hết cả buổi. Tôi không thể nhớ hết, họ đã nói những gì, chỉ cảm nhận rằng tuy thuộc về hai thời kỳ khác nhau, song cả hai đều có điểm chung, ấy là tài năng âm nhạc và thi ca bẩm sinh, được phát lộ, thăng hoa nhờ thời đại, nhờ lịch sử đấu tranh giành tự do độc lập của dân tộc...
Qua cuộc chuyện trò ấy, tôi càng hiểu tấm lòng Văn Cao, cũng là tấm lòng của người trí thức một lòng đi theo cách mạng. Cũng chính vì lẽ đó, mà bài hát “Tiến quân ca” của ông đã được chọn làm Quốc ca; còn bài hát “Tiến về Hà Nội” cùng nhiều bài hát khác của ông đã trở thành bài ca cách mạng, để đến hôm nay, tuy ông không còn nữa, những bài ca ấy vẫn hiện diện và được nhiều người yêu thích.
Hôm ấy, Văn Cao và Trần Đăng Khoa còn trò chuyện nhiều về thơ và hội họa. Ra về, Khoa nhận xét: Văn Cao là người đa tài, âm nhạc, thơ ca và hội họa đều thạo, nhưng nổi bật và thành công hơn cả là âm nhạc. Có thể nói, trong nền âm nhạc Việt Nam hiện đại, ông là nhạc sĩ tài năng hàng đầu. Riêng về thơ, Văn Cao viết không nhiều, khá chắt lọc, nhưng ông thuộc lớp tác giả tiên phong đổi mới thi ca. Ngay từ năm 1956, với trường ca Văn Cao “Những người ra đi từ cửa biển” viết về Hải Phòng, ông đã được nhìn nhận là người sớm cách tân thơ bằng lối thơ không vần nhưng giàu hình ảnh và âm điệu. Điều đó cho thấy ông chủ trương trình diện một lối thơ riêng, để sau này có một Văn Cao - thơ, khác biệt và độc đáo.

Tôi cơ bản đồng ý với nhận định của Trần Đăng Khoa về Văn Cao. Tôi nghĩ, sự nghiệp của Văn Cao là âm nhạc. Ở lĩnh vực này, ông thực sự tài năng, được khẳng định. Còn thơ ca và hội họa của ông chỉ là cách ông “thi hóa” và “hình hóa” âm nhạc của mình mà thôi.
Trước hết về âm nhạc, các ca khúc “Buồn tàn thu”, “Cung đàn xưa”, “Đàn chim Việt”, “Đống Đa”, “Bạch Đằng giang”, “Thăng Long hành khúc”, “Suối mơ”, “Thiên thai”, “Trương Chi”, “Thu cô liêu”… đã sớm làm nên tên tuổi Văn Cao. Đặc biệt, những ca khúc cách mạng và kháng chiến càng làm ông nổi bật như “Tiến quân ca” (sau là Quốc ca Việt Nam), “Bắc Sơn”, “Ca ngợi Hồ Chủ tịch”, “Chiến sĩ Việt Nam”, “Làng tôi”, “Ngày mùa”, “Sông Lô”, “Tiến về Hà Nội”… và sau này là “Mùa xuân đầu tiên”. Tài năng và nổi tiếng như vậy, có những đóng góp lớn cho âm nhạc Việt Nam thời tiền chiến cũng như trong cách mạng, kháng chiến chống thực dân Pháp nhưng Văn Cao lại gặp vấn đề về tư tưởng khiến sự nghiệp âm nhạc của ông khựng lại. Có lẽ vậy, sự thăng hoa về âm nhạc của Văn Cao có cơ hội chuyển dần sang thơ và họa. Sáng tác thơ và họa của ông cũng rất khác người.
Thực ra, Văn Cao làm thơ như ông viết lời cho ca khúc vậy. Trong số các nhạc sĩ sáng tác nhạc mới ở ta thì Văn Cao và Trịnh Công Sơn là hai trong số ít người không phổ thơ người khác mà tự viết lời cho ca khúc của mình. Nhiều ca khúc của họ, nếu bóc tách riêng phần lời, có thể đứng vững như một bài thơ. Chính vì thế, đọc thơ Văn Cao, tuy không vần nhưng giàu âm điệu. Còn hội họa, tôi không được xem tranh màu nước hay sơn dầu của ông nên không dám bàn. Tuy nhiên, để ý các ký họa, phác thảo minh họa cho báo, tôi nhận thấy ông không chỉ minh họa đơn thuần cho nội dung câu chuyện mà phóng bút theo cảm hứng từ sự liên tưởng của mình. Ấy cũng là khác người rồi.
Trở lại với thơ. Trước hết, với tư cách người làm thơ, Văn Cao là một trong những nhà thơ tiên phong về thơ không vần. Tuy nhiên, là nhạc sĩ tự viết lời cho ca khúc của mình nên ông làm thơ không mấy khác việc viết lời cho ca khúc. Thơ không vần của Văn Cao giàu hình ảnh và nhạc điệu, tạo nên một bản sắc riêng. Cứ đọc phần lời các ca khúc của ông, nhất là giai đoạn đầu đến với tân nhạc và thời tiền chiến, bóc tách lời mỗi ca khúc của ông đều thành thơ cả. Sau này, trong thời kháng chiến, thơ với nhạc của ông quấn quện với nhau như hình với bóng. Hãy đọc lời các ca khúc “Làng tôi”, “Ngày mùa” và trường ca “Sông Lô”… lời đẹp như thơ, đúng hơn là thơ.
Hơn một lần, tôi nghe nhà thơ Trần Đăng Khoa khen ca khúc “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao. Thực ra, về chất liệu âm nhạc, ca khúc này không mới mẻ hay trội bật hơn nhiều sáng tác khác của ông, song về ý tưởng và lời ca, nó thật sự khác người. Ca khúc được sáng tác sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước năm 1975. Vậy mà mười năm sau, ca khúc này mới được phổ biến, phát sóng. Hẳn rằng phải có lý do. Trong khi mọi người, nhất là giới văn nghệ sĩ, đều ngợi ca cách mạng bằng những mỹ từ rực rỡ, thì Văn Cao lại gọi đó là “mùa bình thường”. Vĩ đại là thế, mà ông chỉ nói bình thường, liệu có được chấp nhận không? Song, đó mới chính là Văn Cao. Hãy nghe ông lý giải qua lời ca: “Rồi dập dìu mùa xuân theo én về, mùa bình thường mùa vui nay đã về, mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên với khói bay trên song, gà đang gáy trưa bên sông, một trưa nắng vui cho bao tâm hồn,… một cuộc đời êm ấm, từ đây người biết quê người, từ đây người biết thương người, từ đây biết yêu người…”.
Thực tình, tôi muốn nêu trọn vẹn lời ca khúc ra đây để thấy rõ cái tài Văn Cao khi ông viết lời thơ cho ca khúc này của minh… Thiên nhiên muôn đời là vậy, vô tư luân chuyển các mùa với bao cảnh sắc theo đó, ấy là cái lẽ của mùa bình thường. Nguyễn Du từng viết “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, cảnh buồn hay vui là từ lòng người mà ra cả đấy. Mùa xuân đầu tiên sau chiến tranh, lòng người hân hoan nên nhìn thiên nhiên, vạn vật cũng vui theo. Cần gì phải dùng những mỹ từ, những từ ngữ đao to búa lớn để diễn đạt. Văn Cao là vậy, nhỏ nhẹ khoan hòa là cái “tạng” mà cũng là cái “tài” của riêng ông, làm nên khí chất con người ông chăng?