Lý luận - phê bình

GS.TS Kiều Thu Hoạch: Người cần mẫn nghiên cứu văn hóa dân gian

Đặng Thủy 19:48 26/10/2025

GS.TS Kiều Thu Hoạch năm nay bước sang tuổi 92. Đi qua hành trình gần trọn một thế kỷ, ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị. Đó là sự kết tinh trí tuệ của một học giả Hán Nôm uyên bác cùng hành trình trải nghiệm học thuật và cả sự tiếp xúc với các bậc túc nho nhiều thế hệ. Những công trình ấy đã mở ra nhiều hướng tiếp cận khả thi trong nghiên cứu lịch sử, văn hóa Việt Nam.

gs.jpg
Ngoài 90 tuổi, GS.TS Kiều Thu Hoạch vẫn miệt mài, say mê nghiên cứu văn hóa dân gian. Ảnh: Đặng Thủy

GS.TS Kiều Thu Hoạch sinh năm 1934, tại Thị xã Sơn Tây (nay thuộc Hà Nội). Năm 1949, khi mới 15 tuổi, chàng thanh niên Kiều Thu Hoạch đã tham gia biệt động đội của Chi tình báo Sơn Tây. Tháng 3/1950, ông trở thành học viên Trường Thiếu sinh quân Việt Nam và chỉ hơn một năm sau ông được cử đi học ở Khu học xá Nam Ninh (Trung Quốc). Tại đây, GS.TS Kiều Thu Hoạch được đào tạo toàn diện về văn hóa bao gồm văn, sử, triết, nhạc, họa ngoại ngữ và cả thể dục, thể thao... Trở về nước, ông được phân công công tác tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, sau được mời về Viện Văn học, tiếp đó là Viện Hán Nôm. Thời kỳ làm việc ở Viện Văn học, ông được làm việc cùng các bậc túc nho như: GS. Đặng Thai Mai, GS. Cao Xuân Huy, GS. Phạm Thiều, nhà phê bình Hoài Thanh... nhờ đó ông đã lĩnh hội được phương pháp nghiên cứu liên ngành vừa truyền thống vừa hiện đại. Từ năm 1982 - 1999, trước khi nghỉ hưu, ông làm việc tại Viện nghiên cứu Văn hóa dân gian, giữ chức Phó Tổng biên tập rồi Tổng Biên tập Tạp chí Văn hóa dân gian; đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Khoa học của Viện suốt 3 nhiệm kỳ và là Ủy viên Hội đồng Khoa học Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (1997 - 2001).

ban-lam-viec-cua-gs.jpg
Góc bàn làm việc giản dị, nơi GS.TS Kiều Thu Hoạch vẫn miệt mài với những trang bản thảo. Ảnh: Đặng Thủy

GS.TS Kiều Thu Hoạch chia sẻ, ngay từ khi còn nhỏ ông đã được học chữ Hán, chữ Nôm và đọc nhiều sách cổ. Những năm tháng học ở Nam Ninh (Trung Quốc), ông vẫn duy trì thói quen đọc sách đồng thời mở rộng nghiên cứu, tìm tòi. Khi về nước, thấy vấn đề nào thú vị là ông bắt tay vào nghiên cứu, càng viết ông càng hứng thú. “Làm văn hóa phải có vốn hiểu biết sâu rộng mới có thể thực hiện được” - với tâm niệm ấy, ông không ngừng học hỏi, tích lũy cho mình kiến thức từ văn học, mỹ thuật, kiến trúc, văn hóa dân gian... Đặc biệt, tiếp xúc trực tiếp với kho tư liệu Hán Nôm về văn học dân gian, ông cảm thấy vô cùng hứng thú nên chuyên tâm nghiên cứu các truyện kể thuộc loại hình tự sự dân gian như giai thoại, truyền thuyết, truyện thơ Nôm. Từ những năm 1960 - 1970, ông đã giới thiệu và là đồng dịch giả cuốn “Hoàng Lê nhất thống chí”, “Ngọc Kiều Lê tân truyện”; đồng soạn giả cuốn “Giai thoại văn học Việt Nam”, “Điển cố văn học”, “Thơ văn Nguyễn Trãi tuyển” và là tác giả của nhiều đầu sách nghiên cứu văn học, văn hóa.

Qua thời gian, những “đứa con tinh thần” của ông cũng ngày một nhiều thêm. Trong giới nghiên cứu văn hóa dân gian, GS.TS Kiều Thu Hoạch là một tên tuổi không mấy xa lạ. Ông đã khẳng định tên tuổi của mình bằng những công trình nghiên cứu giá trị về văn hóa dân gian, đặc biệt là lĩnh vực văn học cổ. Có thể kể tới: “Văn học dân gian người Việt - góc nhìn thể loại” (Nxb Khoa học Xã hội 2006, Giải thưởng Nhà nước năm 2012); “Truyện Nôm lịch sử phát triển và thi pháp thể loại” (Nxb Giáo dục 2007, Giải thưởng Nhà nước năm 2012); “Văn hóa dân gian người Việt, góc nhìn so sánh” (Nxb Khoa học Xã hội, giải Nhì giải thưởng Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam năm 2014); “Những phạm trù nghệ thuật dân gian người Việt thời trung đại” (Nxb Mỹ thuật, 2016); “Góp phần nghiên cứu lịch sử văn hóa Việt Nam” (Nxb Thế giới, Giải A sách hay toàn quốc lần thứ Nhất - năm 2018). Bên cạnh đó, ông còn chủ biên cuốn “Tổng tập văn học dân gian người Việt” (tập 4, 5, 11, 12), “Tinh tuyển văn học Việt Nam” (tập 1, 2004); phiên âm, khảo dị, chú thích “Thơ Nôm Hồ Xuân Hương”...

mot-so-tac-pham-cua-gs.jpg
Một số tác phẩm tiêu biểu ghi dấu ấn của GS.TS Kiều Thu Hoạch.

Ngay từ khi bước vào hành trình nghiên cứu, GS.TS Kiều Thu Hoạch xác định sẽ tiếp cận theo góc nhìn khoa học, chứ không phải phải nghiên cứu theo hướng “hồi cố”. Nhờ thông thạo chữ Hán, chữ Nôm, Trung văn nên ông dễ dàng tự dịch nghĩa, đối chiếu, trích dẫn vào công trình nghiên cứu của mình nhiều tư liệu mới mẻ, có giá trị, trong đó có nhiều tư liệu chưa được ai khai thác.

Trong lời nói đầu cuốn “Góp phần nghiên cứu lịch sử văn hóa Việt Nam”, ông dẫn lời học giả Nguyễn Văn Tố trong “Đại Nam dật sử - Sử ta so với sử Tàu”: “Sử học cũng như khoa học, không chủ yếu làm sách cho dày, chỉ cốt tìm được nhiều điều mới, xưa nay chưa ai nói đến hoặc chữa những chữ của người trước chép sai”. Đó cũng là phương châm mà ông nhất quán theo đuổi khi biên soạn dòng sách lịch sử văn hóa. “Tôi luôn cố gắng tìm tòi những cái mới, đồng thời thẳng thắn phản biện trao đổi với những sơ suất hoặc bất cập của người đi trước theo tinh thần kế thừa có phê phán. Về phương pháp luận và thao tác nghiên cứu, tôi chủ trương trình bày nội dung các vấn đề theo hướng tiếp cận liên ngành/ đa ngành nhằm phản ánh các sự kiện lịch sử một cách khách quan, trung thực và khảo tả sinh động như nó vốn có trong thực tiễn; chỉ nhận định trên cơ sở tư liệu/ cứ liệu, tránh suy diễn chủ quan, áp đặt thiếu chứng cứ lịch sử. Mỗi công trình nghiên cứu tôi đều mong muốn có những đóng góp mới, chí ít là mới về quan điểm và mới về tư liệu”, GS.TS Kiều Thu Hoạch chia sẻ.

Với riêng mảng đề tài về Hà Nội, GS. Kiều Thu Hoạch cũng đã dành nhiều tâm huyết cho mảnh đất mà mình đã sinh ra và lớn lên. Năm 1991, ông đã tham gia biên soạn và là đồng tác giả cuốn “Địa chí văn hóa dân gian Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội”. Tiếp đó, ông cho ra mắt cuốn sách “Xứ Đoài” - một công trình khảo cứu công phu. Với tâm thức “tồn cổ”, GS.TS Kiều Thu Hoạch không xem xứ Đoài như một bộ phận hành chính của Hà Nội mà xem như một vùng văn hóa với những sắc thái riêng. Qua những khảo cứu và hệ thống về một số di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, tác giả đã dựng lại diện mạo chung của vùng văn hóa cổ Xứ Đoài - vùng đất “phên dậu” nằm ở phía Tây kinh thành Thăng Long xưa và Hà Nội ngày nay. Ngoài ấn phẩm in riêng về xứ Đoài, ông còn góp mặt trong nhiều cuốn sách về văn hóa dân gian Hà Nội như “Hà Tây, làng nghề làng văn”, “Lễ hội cổ truyền Hà Tây”, “Lễ vật trong hội làng Thăng Long - Hà Nội”...

Tác giả Trần Văn Mỹ - hội viên Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội nhận xét: “Đọc các tác phẩm nghiên cứu của GS.TS Kiều Thu Hoạch về văn học/ văn học dân gian Việt Nam và Hà Nội dễ nhận thấy ở mỗi trang viết là vốn tri thức sâu rộng về lịch sử, địa lý, ngữ ngôn… được thể hiện bằng văn phong giản dị nhưng chứa chan tình cảm”.
Không chỉ dừng lại ở lĩnh vực nghiên cứu, GS.TS Kiều Thu Hoạch còn tham gia giảng dạy, hướng dẫn nghiên cứu sinh về văn hóa dân gian trong đó có cả học viên người nước ngoài. Ông còn là thành viên trong Hội đồng chấm luận án, nghiệm thu về đề tài về văn hóa dân gian.

Ở tuổi xưa nay hiếm, sức khỏe cũng không được như xưa nhưng ông không chịu buông bút. Như một thói quen bền bỉ bao năm qua, cứ sau bữa sáng là ông ngồi vào bàn viết. Căn phòng nhỏ của ông chất đầy sách như một thư viện nhỏ giúp ông dễ dàng tra cứu tìm tòi.

Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy trong lời tựa cuốn sách “Thơ Nôm Hồ Xuân Hương” xuất bản năm 2022 của GS.TS Kiều Thu Hoạch cũng đã bày tỏ sự trân trọng và khâm phục về người học giả “trẻ mãi không già”: “Đã gần 90 tuổi, nhưng “gừng càng già càng cay”, ông làm việc vẫn hết sức chất lượng đến thanh niên cũng khó bì kịp”. Những giải thưởng mà ông gặt hái được từ những công trình nghiên cứu chính là sự ghi nhận xứng đáng nhất cho những đóng góp của ông - một người lặng lẽ, bền bỉ cống hiến cho nghiên cứu văn hóa lịch sử nước nhà.

Năm trước, ông vừa hoàn thành bản thảo “Tục lên đồng và lễ gọi hồn của người Việt” (đang chờ xuất bản) thì năm nay ông lại miệt mài với công trình “Linh vật rồng và tâm thức văn hóa của người Việt”. Trên chiếc bàn làm việc nhỏ, những trang bản thảo viết tay ngay ngắn, đẹp đẽ cứ ngày một dày thêm như chính sự chỉn chu trong học thuật của ông. “Tôi còn sức thì còn viết, đề tài vẫn còn nhiều lắm, nhưng không biết sẽ làm được đến khi nào...”, GS.TS Kiều Thu Hoạch bộc bạch. Đó là lời tự sự giản dị nhưng chan chứa niềm say mê của một người luôn cần mẫn nghiên cứu văn hóa dân tộc./.

Bài liên quan
  • Có một mùa thu vẫn còn thơ bé
    Khi những vạt nắng xanh non tháng Chín lung linh nhảy múa bên thềm nhà, bọn trẻ con đã bắt đầu vào năm học mới, lòng tôi lại rộn lên những cảm xúc bâng khuâng khó tả. Trong tâm trí, tôi thấy nhảy nhót những trang sách giáo khoa thời tiểu học, với hình ảnh con gà, con mèo, bắp cải, con trâu... lần lượt ùa về.
(0) Bình luận
  • Thao thức với phần đời chiến trận
    Có thể nói cuộc kháng chiến trường kỳ hào hùng và bi tráng của dân tộc, ở bất kỳ trạng huống nào dường như đã chi phối và tạo động lực cho đội ngũ văn nghệ sĩ, những người cầm bút suy nghĩ và sáng tạo. Ta hiểu vì sao ngay trong cuộc sống thời bình, trong đời sống dân sự, những hình ảnh của ngày hôm qua vẫn khiến con người luôn “thao thức với phần đời chiến trận”.
  • Phát huy vai trò của văn nghệ sĩ Thủ đô trong phát triển công nghiệp văn hóa
    Hà Nội - Thủ đô tự nhiên của lưu vực sông Hồng, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước từ ngàn xưa đã là nơi hội tụ và đào luyện nhân tài. Phần lớn danh nhân Việt Nam từng sống, làm việc, sáng tạo ở Thăng Long - Hà Nội, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc. Ở mảnh đất hội tụ tinh hoa văn hóa bốn phương ấy, con người Thăng Long mang trong mình nét tài hoa, đa tài, đa nghệ, thấm đẫm bản sắc trí tuệ và tinh thần sáng tạo. Trong đó, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ - những người sinh ra, lớn lên hoặc gắn bó với Hà Nội đã góp phần tạo nên diện mạo văn hóa, nghệ thuật Thủ đô bằng nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, khẳng định sức sống trường tồn của văn hóa nghìn năm. Họ chính là nguồn lực đặc biệt không thể thiếu trong hành trình phát triển công nghiệp văn hóa của Hà Nội hôm nay.
  • Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong bối cảnh hội nhập
    Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết của các cấp, các ngành mà còn là sứ mệnh đặc biệt của đội ngũ văn nghệ sĩ Thủ đô. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, việc xác định rõ những trọng tâm trong xây dựng hệ giá trị văn hóa là hết sức cần thiết.
  • Những lưu dấu văn hóa về Hà Nội qua ngôn từ văn chương
    Ngay từ nền văn học Việt Nam trung đại, những trước tác về miền đất thiêng (đất thánh) Đông Đô - Thăng Long - Hà Nội đã được ghi khắc trong sử văn: “Chiếu dời đô” (thế kỷ XI) của Lý Công Uẩn, “Thượng kinh ký sự” (thế kỷ XVIII) của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, “Vũ trung tùy bút” (thế kỷ XIX) của Phạm Đình Hổ, “Long Thành cầm giả ca” (thế kỷ XIX) của Nguyễn Du, “Thăng Long thành hoài cổ” (thế kỷ XIX) của Bà Huyện Thanh Quan.
  • Hai thể thơ mới namkau và 1-2-3 trong lịch sử phát triển của các thể thơ dân tộc
    Khoảng mươi năm gần đây, trên thi đàn Việt xuất hiện hai thể thơ mới: namkau và 1-2-3. Là sản phẩm của thế kỷ công nghệ số, những thể thơ này còn đang ở thời kỳ phôi thai trứng nước.
  • Văn Cao, mùa bình thường...
    Văn Cao là một người tài hoa. Gọi ông là nhạc sĩ, thi sĩ hay họa sĩ đều được. Song tôi nghĩ, gọi ông là nhạc sĩ vẫn chuẩn xác hơn cả, bởi đó là điểm khởi đầu cũng là lĩnh vực ông bộc lộ tài năng nhất và cũng thành công nhất. Nhưng hãy khoan bàn về điều này, tôi muốn phác họa đôi nét về con người Văn Cao qua ấn tượng của mình sau hai lần gặp gỡ...
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • “Tấu khúc lưỡng cực”: Đêm nhạc giao thoa văn hóa Việt - Đức
    Trong hai ngày 20 và 21/12, tại Nhà hát Hồ Gươm sẽ diễn ra chương trình hòa nhạc “Tấu khúc lưỡng cực - A Rhapsody of Two Worlds” do Hội Nhạc cổ điển Việt Nam tổ chức. Sự kiện mang ý nghĩa đặc biệt nhân kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Đức.
  • Chuyển đổi số - Cơ hội và thách thức với văn học nghệ thuật Thủ đô
    Trong bối cảnh chuyển đổi số đang trở thành xu thế tất yếu của mọi lĩnh vực đời sống, văn học nghệ thuật Thủ đô cũng đứng trước những vận hội lớn cùng không ít thách thức. Tọa đàm “Văn học nghệ thuật Thủ đô trong ứng dụng chuyển đổi số hiện nay” do Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội tổ chức sáng 5/12 đã góp phần nhận diện những chuyển động mạnh mẽ của đời sống văn học nghệ thuật trong môi trường số, đồng thời gợi mở những định hướng phát triển phù hợp với thực tiễn.
  • Múa bồng Triều Khúc và chèo tàu Tổng Gối: Di sản sống giữa lòng Thủ đô
    Sáng 4/12, Hội Văn nghệ Dân gian Hà Nội tổ chức cuộc tọa đàm “Diễn xướng dân gian trong lễ hội Hà Nội: Múa bồng Triều Khúc và chèo tàu Đan Phượng”. Qua phần trình bày của nhà nghiên cứu Giang Nguyên Bồi, họa sĩ Giang Nguyên Thái và Giám đốc Trung tâm Văn hóa Thể thao xã Ô Diên Bùi Thị Quyên, những giá trị lịch sử, đặc trưng nghệ thuật và hành trình bảo tồn, phát huy của hai loại hình diễn xướng dân gian độc đáo này đã được làm sáng rõ.
  • Khai mạc 'Ngày hội Việt Nam hạnh phúc 2025'
    Năm 2025, lần đầu tiên "Ngày hội Việt Nam hạnh phúc - Vietnam Happy Fest" được tổ chức dưới hình thức một chuỗi hoạt động trải dài liên tục qua đó có thể kể một câu chuyện trọn vẹn hơn về “hạnh phúc của người Việt” thông qua nhiều không gian, nhiều hoạt động trải nghiệm và tương tác khác nhau.
  • VinFuture 2025: Vinh danh 4 công trình khoa học "Cùng vươn mình - Cùng thịnh vượng
    Quỹ VinFuture chính thức công bố các Chủ nhân Giải thưởng VinFuture 2025. Bốn công trình khoa học công nghệ xuất sắc được vinh danh đã khẳng định nhất quán chủ điểm năm nay là “Cùng vươn mình – Cùng thịnh vượng”, thể hiện vai trò hợp tác khoa học xuyên biên giới để cùng giải quyết các thách thức toàn cầu về y tế, môi trường và sinh kế cho nhân loại.
Đừng bỏ lỡ
GS.TS Kiều Thu Hoạch: Người cần mẫn nghiên cứu văn hóa dân gian
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO