Ngô Thanh Vân, vẻ đẹp kỳ diệu của nỗi buồn
Người xưa rất coi trọng phần nội tâm (tình) trong thơ. Không có văn bản văn học nào thể hiện cái tôi cá nhân rõ như thơ. Nói như nhà văn Trịnh Bích Ngân: “Thơ không chịu được sự che đậy... Dũng cảm phơi bày. Chân thành phơi bày”.
1 Các nhà lý luận phê bình văn học từng nói, nhà thơ hơn ai hết giàu có về nỗi buồn, sự cô đơn. Nhưng rốt cuộc, bài thơ về nỗi buồn được viết bằng ngôn ngữ nào? “Bức tranh” thơ về nỗi buồn chắc chắn khác “bức tranh thơ” về hạnh phúc, không phải ở phía đối lập.
“Vân không” (Nxb Hội Nhà văn, III/2025), của nhà thơ Ngô Thanh Vân gồm 66 bài thơ, thực sự là những nốt, những giai điệu trong “bản nhạc” tâm hồn của chị. Cầm tập thơ trên tay, tôi như được nghe tiếng nói nội cảm của nhà thơ, qua nhân vật trữ tình “tôi”, “em”...

Ngô Thanh Vân là người kín đáo, chỉnh chu. Tôi chỉ mới gặp chị không quá một lần, chưa thể biết nhiều về cuộc sống riêng tư hay cá tính... Thế nhưng, đọc “Vân không”, tôi nhận ra chị sở hữu những giọt nước mắt đẹp, được giấu kín, ngoài đời không thể thấy.
“Ngày em”, “Tôi đã vắng tôi”, “Lạc giữa nhân gian”... là những bài thơ trong “Vân không” khiến tôi bối rối.
“Cánh đồng tôi ngày chỏng chơ gốc rạ/ bốn bề gió thốc cồn cào/ chẳng biết nương vào đâu để neo lại chút niềm kiêu hãnh/ mà không để má mình mằn mặn/ môi mím chặt môi ghìm cơn nấc/ ngoài kia tiếng bấc câu chì” (Cánh đồng tôi).
Khổ đầu của bài thơ mở ra một “cánh cửa tâm hồn” hoang hoải.
“Tôi đã vắng tôi chưa mà trống rỗng/ đèn vào đêm phố ngả sang ngày/ mình hoang lạnh hay lòng cô độc/ đời có bao giờ như giấc mơ” (Tôi đã vắng tôi). “Ta lạc giữa nhân gian từ kiếp trước/ nên long đong lận đận mãi đến giờ/ tìm một lối cho riêng mình đâu dễ/ giữa biển đời ai biết được nông sâu” (Lạc giữa nhân gian).
Đây cũng là hai khổ thơ đầu - “khởi tứ” của bài “Tôi đã vắng tôi” và “Lạc giữa nhân gian” của Ngô Thanh Vân.
Tôi cứ phân vân mãi, sao Ngô Thanh Vân lại sắp xếp các bài thơ tự sự này ngay từ những trang đầu tập thơ?
“Thơ khởi phát từ lòng người” (Lê Quý Đôn). Và chính tác giả “Vân đài loại ngữ” - tác phẩm viết bằng chữ Hán năm 1773 đã khẳng định: “Làm thơ có ba điểm chính: Một là tình, hai là hợp cảnh, ba là sự. Tình là người, cảnh là trời, sự là hợp cả trời đất mà quán thông”.
Người xưa rất coi trọng phần nội tâm (tình) trong thơ. Không có văn bản văn học nào thể hiện cái tôi cá nhân rõ như thơ. Nói như nhà văn Trịnh Bích Ngân: “Thơ không chịu được sự che đậy... Dũng cảm phơi bày. Chân thành phơi bày”. “người đàn bà đi qua cô đơn/ tự biết an yên giữa lạnh lùng dâu bể/ thừa kiêu hãnh/ nhoẻn cười/ trước tị hiềm xỉa xói/ thương những tâm hồn chưa thấm trọn bao dung” (Đi qua cô đơn).
Đừng bao giờ đánh giá thấp sức mạnh và sự quyến rũ của cô đơn. Với người làm thơ, cô đơn chính là sự kích thích vùng sáng tạo ngôn ngữ, như những giọt cà phê tích tụ thành cảm hứng - phút thăng hoa bất định của trạng thái ngoài ý thức. Nói cách khác, đó là sự sáng tạo khởi phát từ vô thức.
“người cũng đừng trách mùa gió chướng/ gió cũng có những ngày khó ở/ như em” (Trên những tầng mây).
Hãy để ý các thi ảnh trong phép so sánh “gió” và “em”. Đến các hiện tượng tự nhiên như mưa, gió, bão, dông… còn khó hiểu, huống chi những ngày “khó ở” của “em”. Không có gì khó dự báo bằng cảm xúc. Những lời độc thoại dù là “Trên những tầng mây” của Ngô Thanh Vân cũng như những “nốt nhạc” vọng ra từ đáy lòng chị.
Sylvan Saul Barnet (1926–2016), nhà phê bình văn học người Mỹ, từng nói: “Thơ là nhu cầu tâm sự với chính mình những lúc cô đơn. Cho nên đọc thơ là nghe trộm nhà thơ đang nói với chính mình”.
Đọc “Vân không” của Ngô Thanh Vân, tôi thấy vang lên, nhói lên câu nói này. Và tôi nhận ra vẻ đẹp kỳ diệu của nỗi buồn trong thơ chị.
2 Ngô Thanh Vân là nhà thơ thế hệ 8X “đời đầu”. Với con người, đó là giai đoạn “đỉnh” của sức khỏe, kinh nghiệm sống, sáng tạo... Nhưng với văn chương, “đường văn” còn dài lắm, còn trẻ lắm.
Ngô Thanh Vân bước vào thi đàn từ rất sớm, đã xuất bản 5 tập thơ trong số 9 tác phẩm. Đọc thơ chị (và cả hai tập tản văn đã xuất bản), tôi nhận ra: hình như chị chỉ viết cho mình để ghi nhớ một tâm trạng, một kỷ niệm, một nỗi buồn, một nỗi đau, một tổn thương...
Ngô Thanh Vân, gốc Nghệ, sinh ra và lớn lên ở Gia Lai, trước sáp nhập “thuần” phố núi. Chị yêu Tây Nguyên. Đọc thơ, văn của Ngô Thanh Vân mới thấy chị giàu cảm xúc về Tây Nguyên và những cảm xúc ấy luôn bất ngờ. Suy cho cùng, giấu kín cảm xúc cũng là một phẩm chất thi sĩ.
“đêm phố thị mênh mang màn mưa mỏng/ đi loanh quanh đã chạm phải lối về/ vai em mỏng đêm cứ dài thăm thẳm/ rẽ lối nào để đừng lạc bến mê?” (Đêm phố thị).
“Khát những chân trời/ tôi bay qua rộng dài bao la bát ngát/ rợn ngợp vực sâu khe suối/ âm u thăm thẳm rừng già”; “chúng ta tự do trên đôi cánh/ sải những đường bay không định sẵn/ ríu rít gọi mặt trời” (Lời hát những đám mây).
Trong “Vân không”, không có bài thơ nào lấy tên địa danh Tây Nguyên (chỉ có chữ “bazan” xuất hiện một lần), nhưng chỉ với nắng, gió, mây… trong nhiều bài thơ, ta đã thấy bóng dáng vùng đất nơi chị sống và yêu. Hiện thực cuộc sống đi vào thơ Ngô Thanh Vân luôn pha màu hư ảo của thi ca, mở ra không gian sương khói, ẩn dụ kép, chuyên chở nhiều tầng cảm xúc.
Ngô Thanh Vân là người sống nội tâm. “Vân không” là lấp lánh trữ tình, xác tín bản thể. Trong tập thơ, chị dành cho con hai bài: “Bàn tay con” và “Nói với con”; dành cho mẹ một bài: “Mẹ”. Đó là tất cả bình yên, bao dung, cứu rỗi và hy vọng của một nhà thơ truân chuyên.
Khi làm thơ, Ngô Thanh Vân không “tuyên ngôn” nữ quyền, nhưng tính giới trong thơ chị cất lên vẻ đẹp tinh tế, trắc ẩn, chân thành.
“cảm ơn mẹ đã cưu mang/ và yêu thương những nhỡ nhàng rủi may/ rượu chưa kịp uống đã say/ con chưa kịp nói đã cay mắt rồi” (Mẹ).
“đất bazan thăm thẳm núi đồi/ nâng từng bước chân con vững chãi/ đèo cao suối sâu đừng ngần ngại/ trải nghiệm nào cũng gặt hái thành công” (Nói với con).
Những bài thơ viết về mẹ và con của Ngô Thanh Vân xúc động bởi sự chân thành. Nếu không có chân thành, sẽ không có thơ, đơn giản vậy thôi.
Ngoài một số ít bài lục bát, đọc “Vân không” có thể thấy Ngô Thanh Vân không chú trọng vần điệu. Thơ chị được viết từ cảm xúc đã ủ trong tâm hồn, từ đâu đó ngôn ngữ được đánh thức, nhạc điệu được khơi dậy, và câu chữ hiện lên.
Không chỉ thế, “Vân không” cho thấy Ngô Thanh Vân là nhà thơ nữ có khả năng nhìn thấy cái thi vị trong sự thường nhật, làm cho “không thể” thành “có thể”, cho cái chưa hề có trở nên hiện hữu trong ngôn ngữ thi ca.
Tôi thường suy nghĩ về “Thanh Vân” - tên nhà thơ, và “Vân không” - tên tập thơ. Khi bố mẹ đặt tên cho con, thường gửi gắm một niềm tin, một ước vọng. Trong Hán - Việt, “vân” là mây, “thanh vân” là mây lành. Và nữa, khi cầm tập “Vân không”, tôi nghĩ đến triết lý “không” - một giá trị cốt lõi trong Phật giáo.
“Dịu dàng nở một đóa mây/ vô thường thả xuống làm ngày em sinh/ trời cho một chút vô tình/ ban thêm chữ nghĩa để mình thong dong” (Ngày em).
Bài thơ không ghi thời gian nhưng người đọc có quyền nghĩ rằng Ngô Thanh Vân sáng tác vào một lần sinh nhật nào đó, như một xác tín của lòng mình.
Trong tập “Vân không” có nhiều bài thơ về mây và khoảng trời: “Thinh không nhẹ bẫng vần mây”, “Trên những tầng mây”, “Trả lại tháng ngày vời vợi xanh”, “Lời hát những đám mây”, “Lục bát trên trời”, “Rồi anh cũng như mây trời lồng lộng”, “Mây trắng”. Hẳn đó không phải là tình cờ. Đó là không gian của ý niệm thi ca. Không ngẫu nhiên mà trong tập còn có hai bài thơ mang tên “Rỗng” và ba bài về “Má hồng”.
“lui một nhịp/ hình như mình đang tiến/ thênh thang dài rộng mỗi cung đường/ Vân không nhẹ bẫng vầng mây ấm/ dịu trôi đôi ước vọng tinh khôi” (Thinh không nhẹ bẫng vần mây).
Ngô Thanh Vân - đám “mây lành” hiện diện giữa đời thực mong manh, dễ vỡ. Đọc “Vân không”, ta nhận ra những góc buồn trong ngòi bút nữ. Thơ chị có nhiều đớn đau, hụt hẫng, mất mát, cam chịu. Nỗi buồn dù thảng thốt vẫn tạo nên vẻ đẹp run rẩy, kín đáo, dẫu là mảnh vỡ, vẫn còn đó nguyên khôi./.