Hai thể thơ mới namkau và 1-2-3 trong lịch sử phát triển của các thể thơ dân tộc
Khoảng mươi năm gần đây, trên thi đàn Việt xuất hiện hai thể thơ mới: namkau và 1-2-3. Là sản phẩm của thế kỷ công nghệ số, những thể thơ này còn đang ở thời kỳ phôi thai trứng nước.
Thể namkau do Trần Quang Quý (1955 - 2022) sáng lập năm 2016. Cho đến khi ra đi, thi sĩ đã để lại 3 tập thơ: “Namkau” (NXB Hội Nhà văn, 2016), “Ướp nhớ” (NXB Hội Nhà văn, 2020), “Những sắc màu đa thức” (NXB Hội Nhà văn, 2022). Câu lạc bộ thơ namkau do anh làm chủ nhiệm cũng lần lượt công bố hai tập: “Khúc dạo con đường 1” (Nhiều tác giả, NXB Hội Nhà văn, 2020), “Khúc dạo con đường 2” (NXB Hội Nhà văn, 2023). Ngoài ra, còn có một số hội viên namkau như: Nguyễn Xuân Đạt, Đặng Quốc Việt, Dương Văn Lượng, Phạm Thị Hồng Thu đã xuất bản tập thơ riêng.


Về thể thức, mỗi bài thơ namkau (năm câu) bắt buộc chỉ có năm câu, số chữ trong mỗi câu không hạn định. Thơ namkau có thể có hai hình thức: thơ tự do và thơ lục bát. Nếu là thể thức lục bát thì phải kết thúc ở câu lục. Về cấu trúc, bài thơ namkau chia hai phần. Phần thứ nhất (3 câu đầu của thơ tự do và 4 câu đầu của thể lục bát) có tính “trình” và “diễn” cảm xúc, ý tưởng về vấn đề tác giả quan tâm, muốn gửi tới bạn đọc. Hai câu cuối thể tự do và câu lục thể lục bát là “kết” và “nghiệm”, tức là rút ra bài học kinh nghiệm về cuộc sống cũng như những triết lý nhân sinh bổ ích. Ví dụ như bài “Cảm thức” của Trần Quang Quý:
Mùa thu giặt những đám mây trắng
phơi lang thang bầu trời
Vắt ngang gió một lườn sông sóng sánh
Trong bình minh chợt nhú
Ban mai vừa cởi cúc mùa thu
Năm 2022, tác giả Trần Quang Quý đã vĩnh viễn ra đi, để lại những ước mơ dang dở và sự nuối tiếc của bao bạn yêu thơ.
Thể thơ 1-2-3 do Phan Hoàng khởi xướng, xuất hiện trên báo Văn Nghệ năm 2018, sau đó được nhiều tác giả hưởng ứng rồi lan tỏa khá mạnh. Hiện nay, thể thơ này đang trên đà phát triển và ngày càng khẳng định vị thế của mình. Thơ 1-2-3 đã được nhiều người trong và ngoài nước thử nghiệm và bước đầu tạo được tiếng vang. Có thể kể tới các tập thơ sau: “Thơ 1-2-3 tuyển tập” (Nhiều tác giả, 4 tập), “Ngẫu hứng 1-2-3” (Phan Hoàng), “Nối vần” (Nhiều tác giả), “Ủ hồng bếp lửa” (Vũ Thanh Thủy), “Những cánh hoa mở đêm” (Phạm Thị Phương Thảo), “Vọng núi” (Trần Nguyệt Anh), “Hạt sương ngủ gối cánh đồng” (Phạm Thế Chất), “Hoa rong mùa bấc” (Trần Nhã My), “Thị à thị ơi” (Phạm Thị Hồng Thu), “Ban mai thơm mắt nắng” (Vũ Trần Anh Thư)…
Với thể thơ 1-2-3, mỗi bài là một chỉnh thể độc lập gồm 3 đoạn 6 câu. Đoạn 1: 1 câu, tối đa 11 chữ (cũng là tên bài thơ). Đoạn 2: 2 câu, mỗi câu tối đa 12 chữ. Đoạn 3: 3 câu, tối đa mỗi câu 13 chữ. Nội dung chủ yếu đi từ ngoại cảnh vào nội tâm. Từng câu thơ luôn có mối tương quan với toàn bài, giữa câu 1 và câu 6 có tính hô ứng, làm cho nội dung bài thơ chặt chẽ, thống nhất trong một không gian thẩm mỹ riêng biệt. Cách gieo vần tự do, không bị gò bó như thơ truyền thống. Nhìn chung, thơ 1-2-3 ngắn gọn, hàm súc, bỏ kể tả rườm rà, có tính triết lý cao. Cấu trúc, câu chữ chặt chẽ nhưng nội dung không bó buộc mà phóng khoáng, không cần đăng đối.
Xin giới thiệu bài thơ “Sống lại giấc mơ trên đồi chim sẻ” thể 1-2-3 của tác giả Phan Hoàng in trên tạp chí Prodigy (Mỹ):
Mặt trời dừng ngôi sao đỉnh tháp trường Lomnosov
Luzhniki cỏ tươi nguyên không khí lễ hội
bóng đá hành tinh
Xanh biếc sông in Moskva tráng lệ thu tầm mắt
đường thoai thoải tuổi xuân chim hót xuyên rừng
khởi hành giấc mơ tri thức ba mươi năm
ta mới gặp mình
Vẫn biết, hai thể thơ namkau và 1-2-3 mới chỉ vừa xuất hiện, chưa thể khẳng định chắc chắn chúng sẽ vận động, phát triển ra sao. Nhưng nếu nhìn lại tiến trình lịch sử văn học của nhân loại và dân tộc thì ta sẽ thấy sự xuất hiện của những thể loại mới là vô cùng quan trọng. Bởi theo nhà triết học, ngôn ngữ học, phê bình văn học người Nga Mikhail Mikhailovich Bakhtin (1895 - 1975), lịch sử văn học chính là lịch sử nối tiếp nhau của các thể loại. Văn học không phát triển bằng sự lặp lại đơn thuần mà bằng sự thay thế và kế thừa giữa các thể loại. Các thể loại mới xuất hiện để đáp ứng nhu cầu nhận thức và biểu đạt mới của con người, đồng thời kế thừa, biến đổi những gì đã có từ trước. Như vậy, nhìn vào lịch sử văn học là thấy một quá trình “đối thoại” và nối tiếp của các thể loại. Đặt hai thể thơ namkau và 1-2-3 vào lịch sử phát triển của các thể loại thơ ca dân tộc, ta có thể thấy rõ điều này.
Sơ bộ khảo sát lịch sử phát triển của thi ca Việt Nam từ thế kỷ X đến nay, chúng ta thấy, nền văn học viết Việt Nam có các thể thơ dân tộc sau: Lục bát, song thất lục bát, hát nói, diễn ca. Như vậy, chúng ta đã sáng tạo được 4 thể thơ dân tộc (mà chưa sáng tạo được thể loại văn xuôi nào). Có lẽ, do người Việt nghiêng về tư duy duy cảm, có năng khiếu thơ, yêu thơ nên có truyền thống, có nền tảng và vốn liếng thơ khá dày dặn hơn so với văn xuôi. Suốt hàng ngàn năm (từ thế kỷ X đến thế kỷ XX) các tác gia tên tuổi của nền văn học trung đại Việt Nam đều là nhà thơ: Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Du, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà… Hình như chỉ mình Nguyễn Dữ - tác giả thiên cổ kỳ bút “Truyền kỳ mạn lục” được coi là tác giả văn xuôi (chắc ông có làm thơ nhưng không lưu lại bài nào).
Thực tế cho thấy, chỉ có giao lưu mới có phát triển: các thể thơ dân tộc trên ra đời trong cuộc giao lưu văn hóa với Trung Hoa. Chúng được hình thành nhờ sự gặp gỡ giữa những giá trị tinh hoa văn hóa dân tộc Việt với văn hóa Trung Hoa - nền văn hóa lớn của phương Đông.
Thể thơ lục bát trong văn học viết vốn có nguồn gốc từ ca dao (ca dao Việt Nam hơn 95% thuộc thể lục bát). Đến thế kỷ XVI, lục bát chính thức trở thành thể loại quan trọng nhất của nền văn học viết nước nhà. Chúng tôi suy luận như vậy vì khảo sát thơ của nhà thơ lớn Nguyễn Trãi ở thế kỷ XV không thấy có bài lục bát nào.
Trên cơ sở thể lục bát, truyện thơ Nôm được hình thành với hàng trăm tác phẩm, chia làm 2 bộ phận là truyện thơ Nôm bình dân và truyện thơ Nôm bác học. Thơ Nôm bình dân (khuyết danh) thường do các trí thức bình dân sáng tác, chủ yếu được viết dưới ánh sáng của quan niệm mỹ học dân gian và được truyền bá bằng con đường truyền miệng của dân gian. Tiêu biểu là: “Tống Trân - Cúc Hoa”, “Phạm Tải - Ngọc Hoa”, “Thoại Khanh - Châu Tuấn”… Truyện thơ Nôm bác học do các nhà Nho sáng tác, có đề rõ tên tác giả. Ví dụ: “Hoa Tiên” của Nguyễn Huy Tự, “Sơ kính tân trang” của Phạm Thái, “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu. Sự xuất hiện tuyệt tác “Truyện Kiều” (3254 câu lục bát) của Nguyễn Du đã đánh dấu sự phát triển đến đỉnh cao của thể lục bát với nhiều câu thơ hoàn mỹ:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non khơi bóng vàng
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Thể song thất lục bát ra đời do sự kết hợp giữa thơ lục bát Việt Nam với thơ 7 tiếng của Trung Hoa. Mỗi khổ song thất lục bát gồm 4 câu: 2 câu 7 và 1 cặp 6/8:
Ngoài đầu cầu nước trong như lọc
Dưới chân cầu cỏ mọc như nêm
Xa chàng lòng dặc dặc buồn
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền
(Chinh phụ ngâm)
Từ song thất lục bát đã sản sinh ra những khúc ngâm như: “Chinh phụ ngâm” (Đặng Trần Côn, dịch giả Đoàn Thị Điểm), “Cung oán ngâm khúc” (Nguyễn Gia Thiều), “Tự tình khúc” (Cao Bá Nhạ), “Ai tư vãn” (Ngọc Hân công chúa)…
Thứ ba là hát nói (còn gọi là ca trù). Đây là thể loại kết hợp giữa thơ và nhạc, giữa thanh và sắc, tồn tại như một nghệ thuật biểu diễn. Tác giả tác phẩm tiêu biểu: Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858), Cao Bá Quát (1809-1855), Dương Khuê (1839 - 1902), Nguyễn Khuyến (1835 - 1909). Nổi tiếng là bài “Hồng hồng tuyết tuyết” của cụ nghè Vân Đình Dương Khuê:
Hồng hồng, tuyết tuyết
Mới ngày nào còn chửa biết cái chi chi
Mười lăm năm thấm thoát có ra gì
Ngoảnh mặt lại đã tới thì tơ liễu
Tiếp đến là thể diễn ca: một thể văn vần phổ biến trong văn học trung đại, thường kể lại các truyện lịch sử, văn vần hóa một số tác phẩm văn xuôi, truyện tích, giáo lý cho dễ nhớ, dễ truyền bá (có thể gọi là dân gian hóa). Ở đây sự gặp gỡ giữa dân gian và bác học rất rõ. Ví dụ: “Thiên Nam minh giám” (Lê Hy biên soạn vào thế kỷ XVII), “Thiên Nam ngữ lục” (khuyết danh, thế kỷ XVII - XVIII), “Đại Nam quốc sử diễn ca” (Phạm Đình Toái, thế kỷ XIX), “Lịch sử nước Nam diễn ca” của tác giả Lê Ngô Cát (thế kỷ XIX), sau đó được Phạm Đình Toái nhuận chính… Như vậy, các thể thơ mới xuất hiện trong 10 thế kỷ văn học viết Việt Nam đều dựa trên nền tảng văn hóa dân tộc mà cụ thể là văn học dân gian (trước thế kỷ X, nước Việt chưa có văn học viết).

Điều cần bàn là, với sự ra đời của những thể thơ dân tộc, đặc biệt là lục bát, song thất lục bát, lịch sử văn học nước nhà đã bước sang một trang mới, đã có sự bùng nổ mạnh mẽ, với những đỉnh cao như: “Truyện Kiều”, “Chinh phụ ngâm”, “Cung oán ngâm khúc”… Hàng loạt tác giả lớn: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tú Xương xuất hiện, khẳng định nền văn học viết Việt Nam đã thực sự trưởng thành.
Đầu thế kỷ XX, cuộc giao lưu văn hóa với phương Tây (và các nước XHCN) không sản sinh ra những thể loại văn học mới. Nhưng cuộc giao lưu lần thứ ba ở thế kỷ XXI, dù mới chỉ diễn ra vài chục năm, đã bước đầu hình thành 2 thể thơ: namkau và 1-2-3.
Có thể nói, sự xuất hiện của hai thể thơ namkau và 1-2-3 trong lịch sử thi ca dân tộc là tín hiệu thật đáng mừng. Hy vọng, chúng sẽ được hoàn thiện và sẽ thúc đẩy nền văn học nước nhà hội nhập sâu rộng vào nền văn hóa toàn cầu. Vẫn biết, rất nhiều thể nghiệm mới có được một thành công. Nhưng đóng góp của những người dám sáng lập ra các thể thơ mới như Trần Quang Quý, Phan Hoàng và những người góp phần giúp cho những thể thơ thuần Việt đó ngày càng hoàn thiện như Vũ Thanh Thủy, Phạm Thị Phương Thảo, Bùi Thị Hà, Trần Nguyệt Anh, Phạm Thế Chất, Trần Nhã My, Phạm Thị Hồng Thu, Vũ Trần Anh Thư, Lôi Vũ… quả thật rất đáng trân trọng./.