Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” là dấu son chói lọi trong lịch sử kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Giờ đây, chiến tranh đã lùi xa, nhưng giá trị và thông điệp từ những kỷ vật kháng chiến của những năm tháng không thể nào quên sẽ còn mãi. Nó gợi nhớ một thời đạn bom, hy sinh thầm lặng, những cống hiến, đóng góp lớn lao của các thế hệ cha anh vì độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc.
Cuối năm 1953, chuẩn bị cho chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954, cũng nhân dịp kỷ niệm 9 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục Chính trị đề xuất với Hồ Chủ tịch về việc thêu cờ dùng làm giải thưởng luân lưu cho các đơn vị trong toàn quân thi đua giết giặc lập công, động viên bộ đội chiến đấu, giành thắng lợi cuối cùng.
Ngày 22 tháng 12 năm 1953, lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” chính thức được sử dụng, trở thành giải thưởng luân lưu của Bác.
Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc, miền Bắc hoàn toàn giải phóng. Sự nghiệp đấu tranh giành giải phóng dân tộc lại được tiếp tục, trường kỳ tại miền Nam ruột thịt. Lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” lại tiếp tục theo chân các chiến sĩ, trở thành biểu tượng chiến đấu và chiến thắng, là niềm tin yêu và kỳ vọng vào hòa bình, là hình ảnh chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu luôn trong lòng mỗi người chiến sĩ, là động lực để thực hiện quyết tâm giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.
Chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn từ ngày 13/3/1954, công tác chuẩn bị bắt đầu từ trước đó gần 3 tháng. Đến đầu tháng 4/1954, khi chiến dịch bước sang đợt tấn công thứ hai, ý tưởng về việc thiết kế một tấm huy hiệu mang biểu tượng của chiến dịch Điện Biên Phủ được hình thành nhằm cổ vũ, nâng cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng của bộ đội ta. Không ai khác, chính Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh mặt trận chính là người nghĩ ra ý tưởng đó.
Trong điều kiện quân ta vừa kết thúc đợt tấn công thứ nhất, với sự lập công xuất sắc của đơn vị pháo binh, tiêu diệt Trung tâm đề kháng Him Lam, Độc Lập, bức hàng địch tại đồn Bản Kéo, mở toang cánh cửa phía Bắc và Đông Bắc của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, bốn yêu cầu được đặt ra đối với tấm huy hiệu:
Nhiều ngày cặm cụi, miệt mài với 10 mẫu thiết kế, hình mẫu Huy hiệu chiến sĩ Điện Biên được hoàn thành, chuyển về địa phương và gửi đi nước bạn sản xuất hàng loạt.
56 ngày đêm máu lửa, xe tăng, đại bác, pháo, máy bay ném bom giày xéo lòng chảo Mường Thanh, Điện Biên Phủ trở thành chiến trường khốc liệt nhất trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân ta. Ngày 07/5/1954 lịch sử, niềm vui vỡ òa trong nước mắt khi tin bắt sống De Castries và toàn bộ quân địch tại Điện Biên được loan đi khắp mặt trận và hậu phương.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, tuy không trực tiếp ra mặt trận nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dõi theo và sống từng phút, giây với các chiến sĩ. Ba lần Người gửi thư thăm hỏi và động viên chiến sĩ, lần cuối khi ta vừa giành được thắng lợi, Bác viết:
“…Bác và Chính phủ định thưởng cho tất cả các chú Huy hiệu “Chiến sĩ Điện Biên Phủ”. Các chú có tán thành không?
Bác dặn các chú một lần nữa: Chớ vì thắng mà kiêu, chớ chủ quan khinh địch, phải luôn luôn sẵn sàng làm trọn nhiệm vụ Đảng và Chính phủ giao cho các chú…”
70 năm trôi qua, chiếc Huy hiệu Chiến sĩ Điện Biên Phủ trở thành báu vật được nâng niu, gìn giữ bởi những người ở lại, đó không chỉ là kỷ niệm, mà còn là sự ghi nhận, tri ân với những người lính Điện Biên; là kỳ tích được lập nên từ lòng yêu nước dưới thời đại Hồ Chí Minh.
Trong tất cả các phương tiện vận chuyển, xe đạp thồ đã chứng minh được tính ưu việt, là phương tiện vận chuyển vô cùng hiệu quả chỉ sau xe cơ giới. Nhờ đó, trong suốt quá trình diễn ra chiến dịch, Điện Biên Phủ chưa bao giờ bị gián đoạn về hậu cần từ lương thực, thực phẩm, thuốc men và những nhu yếu phẩm cần thiết.
Vào thời kỳ ấy, xe đạp là một tài sản có giá trị, không phải gia đình nào cũng có thể mua được. Sở hữu được nó phải là những gia đình có điều kiện, hơn thế muốn đi được còn phải đăng ký, được cấp biển số xe.
Ấy vậy mà đến chiến dịch Điện Biên Phủ, ta huy động được 20.991 chiếc xe đạp dùng để thồ, vận chuyển hàng phục vụ cho chiến dịch, trở thành loại phương tiện vận chuyển chính, cơ động, năng suất, được ví như “Vua vận tải” chiến trường.
Sở dĩ là “Vua vận tải” vì có nhiều ưu điểm vượt trội so với nhiều phương tiện vận chuyển khác. Không cần nhiên liệu, nhỏ gọn, có thể ngụy trang trong bất cứ tình huống nào hoặc dễ dàng ẩn nấp tránh máy bay trinh sát và khi hỏng lại dễ sửa chữa.
Đội quân xe đạp thồ cũng được tổ chức, biên chế như quân đội, thành từng đoàn theo từng địa phương lúc cần thiết có thể hỗ trợ, giúp đỡ nhau trên đường đi; lúc khác có thể phân tán theo tình hình thực tế. Trong nhiều tài liệu còn ghi, mỗi đoàn xe đạp thồ còn có những xe chuyên chở vật liệu, phụ tùng để thay thế dọc đường. Nhờ đó, trong suốt quá trình diễn ra chiến dịch Điện Biên Phủ chưa bao giờ bị gián đoạn về hậu cần từ lương thực, thực phẩm, thuốc men và những nhu yếu phẩm cần thiết.
Đã có nhiều kỷ lục gắn liền với chiếc xe đạp thồ. Ví như chiếc xe đạp thồ của ông Ma Văn Thắng ở Thanh Lâu, Thanh Ba, Phú Thọ, một trong những dân công tiêu biểu cho việc vận chuyển. Nhiều lần lên Điện Biên Phủ, đã có lần thồ hàng của ông đạt kỷ lục 325kg, cao nhất chiến dịch, trở thành tấm gương tiêu biểu trong công tác hậu cần thể hiện tinh thần yêu nước, sẵn sàng phục vụ chiến dịch. Dưới mưa bom, bão đạn quân thù, những dân công hỏa tuyến, tình nguyện viên phục vụ chiến dịch đã trở thành những anh hùng thầm lặng làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại trong lịch sử dân tộc./.
Nội dung & Thiết kế: Tô Ngọc Oanh