Danh thắng & Di tích Hà Nội

Nhà thờ Nguyễn Thực (huyện Đông Anh)

Sơn Dương (t/h) 12:04 27/04/2023

Nhà thờ Nguyễn Thực (còn gọi là Nguyễn Thật) ở thôn Vân Điềm, xã Vân Hà, huyện Đông Anh, Hà Nội.

Nhà thờ họ Nguyễn xây dựng vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVII. Trước kia có 2 toà kiến trúc kiểu chữ nhị. Năm 1862 bị bọn nghịch đảng đến đốt cả làng và nhà thờ. Sau đó họ xây lại kiểu chữ nhất một toà 5 gian và tồn tại đến nay. Vào năm 1987 - 1990 nhà thờ được tu sửa lại.

Nguyễn Thực lúc nhỏ tên là Bảo. Năm 1595 ông đỗ tiến sĩ, khi ông 10 tuổi, được vua Lê ngự bút đổi tên là Nguyễn Thực, được bổ làm quan qua nhiều chức vụ: Khánh Xuyên tử, Khánh Xuyên bá, Phương La hầu (1610), Lan Quận công (1627). Ông lần lượt giữ nhiều trọng trách trong triều: Tả thị lang bộ Lễ (1610), Hình bộ Thượng thư kiêm Hàn lâm viện thị độc, trưởng Hàn lâm viện (1618), Đông các đại học sĩ (1621), Thiếu phó (1627); Thiếu uý quốc lão, tham dự triều chính (1632) lại được tặng: Thái bảo thượng trụ quốc thượng trật. Năm Giáp Tuất (1634) làm Hộ bộ thượng thư, Thái phó chí sĩ. Ông mất năm 1637 tại nhà riêng ở Vân Điềm ngày 14 tháng mười một âm lịch, thọ 83 tuổi. Triều đình nghỉ việc 3 ngày để tang, ông được tặng chức Thái tể, đặt thuy là Trung Thuần.

Con trai ông là Nguyễn Nghi sinh năm 1588, đỗ tiến sĩ khoa Kỷ Mùi (1619), làm quan đến chức Thượng thư bộ Hình (1642), Thượng thư bộ Lễ (1644), Thượng thư bộ Lại, Dương quận công, Thiếu phó. Mất năm Đinh Dậu (1657), thọ 70 tuổi. Triều đình bãi triều 3 ngày, tặng hàm Thái phó, thuy là Cung Ý.

Hai cha con Nguyễn Thực đã đóng góp nhiều công lao trong việc trị quốc, phát triển văn học, ngoại giao của đất nước, được người đời rất trọng vọng.

Hiện nay nhà thờ họ Nguyễn Thực còn bảo lưu được không ít di vật có niên đại vào thế kỷ XIX như: một án gian với những hình chạm cầu kỳ tám chiếc ngai gỗ sơn son thếp vàng, 11 đôi câu đối với nội dung ca ngợi công đức Nguyễn Thực và truyền thống dòng họ Nguyễn - Vân Điềm, ví dụ như câu:

Phiên âm:

Sự nghiệp phá thiên hoang

Khai quốc công thần Tiến sĩ

Tình linh trung địa ấm, truyền gia hiếu tử hiền tôn.

Tạm dịch:

Sự nghiệp phá trời hoang, là Tiến sĩ công thần Khai quốc. Anh linh chung đất tốt nối đời cháu giỏi, con hiền.

Để ca ngợi công lao của tổ tiên, động viên con cháu tiếp nối truyền thống của ông ngày 8 tháng tư năm Quý Mùi (1933) toàn họ đã dựng tấm bia tứ diện đặt trước nhà thờ (cao 1m80 cạnh 0m60) trên trán bia bốn mặt đều khắc chữ to:

Mặt I: Vân Điềm Nguyễn tộc bi (bia dòng họ Nguyễn làng Vân Điềm) Mặt II: Trung hiếu truyền gia (Gia tộc đời đời trung hiếu). Mặt III: Tác Thuỳ bất hủ (Văn chương kinh thế, Văn chương giúp đời). Trên mặt II tấm bia có ghi bài minh như sau:

Tổ tiên rực rỡ

Mãi mãi vươn cao

Đầy đủ văn võ

Giúp Lê Trung Hưng

Công lao hiển hách

Trung dũng hơn người

Đức đầy như nước

thế thịnh thay

Giữ đạo khi loạn

Nối truyền thống không thôi

Nêu rõ đức tốt

Đất Bắc lừng danh

Xem bằng như núi

Trải nhiều như mây

Truyền lại điều hay cho con cháu mai này.

Với những di sản còn lưu giữ được, nhà thờ Nguyễn Thực, làng Vân Điềm không chỉ là một di tích mà còn là một bảo tàng lưu niệm giữ gìn truyền thống tốt đẹp của tổ tiên, của dòng họ Nhà thờ Nguyễn Thực đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích lịch sử năm 1993.

-~ tích

Danh nhân Nguyễn Thực)

Làng Vân Điểm (tên nôm là Kẻ Đóm), huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh xưa, nay thuộc xã Vân Hà, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội. Đây là một vùng đất trù phú, dân cư phong lưu và nổi tiếng ham học. Chính nơi đây đã sinh ra một người, với tên tuổi và sự nghiệp không chỉ làm rạng rỡ quê hương, mà còn lưu mãi trong sử sách, đó là Tiến sĩ Nguyễn Thực.

Ông tên thật là Bảo, sau đổi là Thực, tự Phác Phủ, tên hiệu là Tiết Trai, sinh giờ Thìn ngày 24 tháng sáu năm Ất Mão, niên hiệu Thuận Bình thứ 7 (1555). Ngay từ nhỏ ông đã thông minh, tài trí hơn người. Tương truyền bấy giờ có quan Thượng thư nhà Mạc là Đàm Cư, người làng Mục, bắt dân đinh các làng: Kim Thiều, Ông Mạc, Vân Điềm, Thiết Ứng đi làm phu phen, tạp dịch, trong số đó có Nguyễn Thực. Thấy dáng người nho nhã, mặt mũi khôi ngô, Đàm Thượng thư gọi ông đến hỏi tên tuổi, gia cảnh, rồi ra một vế đối: “Thập bát lực năng đảm thổ" (Mười tám tuổi đủ sức gánh đất) để thử tài. Nguyễn Thực lập tức đối lại ngay: “Cửu ngũ long phi tại thiêu” (Hào cửu ngũ quẻ càn có bậc đế vương xuất hiện). Thấy khẩu khí khác thường, Đàm Công lệnh cho huyện quan từ nay miễn sai dịch cho Nguyễn Thực, lại cho tiền đi học và gả cháu gái là Đàm Thị Thanh cho. Trong thời gian theo học thầy họ Nguyễn ở làng Kim Thiều (nguyên là quan Thượng thư nhà Mạc về trí sĩ), Nguyễn Thực ngày đêm dùi mài kinh sử không sách nào không làu thông. Rất nhiều lần thầy khuyên Nguyễn Thực nên đi thi, đem tài năng phục vụ cho xã tắc, về phần mình cũng được vinh thân, nhưng ông một mực từ chối và thoái thác rằng chỉ cốt học cho biết luân thường đạo lý làm người. Thực ra ông là người mang nặng tư tưởng chính thống của nhà nho.

Lý tưởng của kẻ sĩ là đi học - đi thi - làm quan nhưng chỉ xuất thế khi có bậc vua sáng, có bậc chúa minh. Nguyễn Thực sống trong giai đoạn đất nước cực kỳ rối ren. Chiến tranh liên miên giữa tập đoàn Lê - Trịnh với nhà Mạc, nội bộ nhà Lê cũng xảy ra tranh vị đoạt ngôi. Mặc dù biết vua Lê chỉ là bù nhìn, mọi quyền bính đều nằm trong tay chúa Trịnh, song Nguyễn Thực vẫn coi nhà Mạc là "nguỵ" và ông vẫn một lòng chờ đợi vua Lê. Đó là lý do khiến ông mãi 40 tuổi mới ra ứng thí. Nguyễn Thực đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ khoa Ất Mùi niên hiệu Quang Hưng thứ 18 (1595) nhà Lê.

Suốt 40 năm làm quan, Nguyễn Thực đã một lòng một dạ dốc hết tâm lực phò tá vương triều Lê - Trịnh, ông đã lập được nhiều công tích. Năm 1606, Nguyễn Thực cùng với đoàn sứ bộ là Ngô Trí Hoà, Phạm Hồng Nho, Nguyễn Duy Thì được cử sang cống nhà Minh. Trên đường đi sứ ông đã làm được 16 bài thơ hiện còn chép trong Toàn Việt thi lục. Thơ ông bài nào cũng đau đáu nỗi nhớ nước thương nhà, ông luôn cảm thấy mình còn kém cỏi chưa làm được gì để đền đáp ơn vua, lộc nước.

Con đường hoạn lộ của Nguyễn Thực quả lắm nỗi gian truân, vất vả, nào lo chính sự, lo đánh giặc, lo việc thi cử, tuyển chọn nhân tài... Việc nào ông cũng chu đáo, trọn vẹn nên được vua chúa tin yêu, dân chúng kính phục. Mặc dù giữ nhiều trọng trách của triều đình, được phong hàm tước tột đỉnh: Thiếu phó Lan quận công (1627), Thái Bảo, Thượng trụ quốc, Thượng trật (1632), Thượng thư bộ Hộ, gia phong hàm Thái phó (năm 1634), song lúc nào ông cũng là con người thuần hậu thanh liêm. Trong sách Lịch triều hiến chương loại chỉ, Phan Huy Chú đã nhận xét: “Ông là người thuần hậu, trong sạch, cẩn thận, không thu vén cho riêng mình. Làm quan đạt đến tột độ vinh hiển mà vẫn sống thanh bạch, tiết tháo, phong độ sánh với các danh thần thời xưa".

Gia phả họ Nguyễn ở Vân Điềm do Thạch nông Nguyễn Tư Giản cháu xa đời của Nguyễn Thực viết lại những mẩu chuyện về cuộc đời Nguyễn Thực cảm động và đáng kính. Đó là: vào khoảng năm Quý Hợi (1623) lúc này Nguyễn Thực làm Thượng thư bộ Lễ, hàm Thiếu Bảo, Trịnh Tùng lâm bệnh nặng liền lập Trịnh Tráng là thế tử nối ngôi chúa, Trịnh Xuân là em Tráng không phục, muốn đoạt ngôi, bèn huy động dân binh kéo đến phá hoàng cung, gây sức ép buộc Trịnh Tùng phải lập mình làm thế tử. Được tin, lập tức Nguyễn Thực tìm gặp Trịnh Tùng và nói rằng: “Xuân làm loạn xã tắc, xin nhà chúa triệu hắn đến, tôi xin đem quân đến dẹp”. Nhưng Trịnh Tùng cứ dùng dằng không quyết. Nguyễn Thực bèn thẳng thắn tâu: “Vương thượng coi con mình hơn hay sự an nguy của xã tắc hơn?". Thế rồi ông cùng với Bùi Sĩ Lâm tìm cách dụ Trịnh Xuân đến làng Hoàng Mai vây bắt được và chặt đi một chân. Sau đó ông về báo với Trịnh Tùng: “Chúa vì cốt nhục không nỡ, nhưng tôi đã vì xã tắc mà chặt một chân của Xuân. Hắn là đứa con bất hiếu, đứa tôi bất trung".

Bản tính thẳng thắn, cương trực, khiến ông dám nói, dám làm, không sợ liên luỵ đến thân mình. Gia phả cũng chép sự việc tháng 4 năm 1632, Nguyễn Thực đã vạch tội 2 tên quan tham khét tiếng là Nguyễn Tuấn và Nguyễn Lại. Chúng đã vơ vét không biết bao nhiêu tiền của trong việc tuyển dụng các chức quan lại, mặc dù được chúa Trịnh rất sùng ái, nhưng cuối cùng bọn Tuấn, Lại vẫn bị cách chức. Đối với bạn bè đồng triều, Nguyễn Thực sẵn sàng chấp nhận nguy hiểm, chịu cho quân Mạc bắt để cứu Phùng Khắc Khoan thoát, đem bằng sắc lệnh dụ của nhà Minh về cho vua Lê.

Tuổi cao Nguyễn Thực xin về trí sĩ được vua ban cho hơn 60 mẫu lộc điền. Dẫu rằng chỉ cò mấy nếp nhà gỗ và vài ba sào ruộng, song ông đem tất cả số ruộng lộc nhập vào công điền. Những ngày cuối đời sống trong cảnh thanh bạch ở quê nhà, ông vẫn luôn lo lắng cho mọi người. Ông xin giảm tô thuế cho dân, tham gia xây dựng đình làng Me (quê ngoại của mình), xây văn chỉ, làm hương ước để hướng dẫn vào thuần phong mỹ tục, xây dựng làng xóm sung túc, phồn vinh.

Ngày 14 tháng mười một năm Đinh Sửu (1637), ông mất tại quê nhà làng Vân Điềm, hưởng thọ 83 tuổi.

Nguyễn Thực qua đời, cả triều đình đều thương tiếc. Vua Lê truy tặng ông chức Thái tể và ban cho tên thuỵ là Trung Thuần Công, được hưởng quốc tang. Vua lại cho chọn nơi đất tốt tại đồi Thanh Nhàn, huyện Kim Hoa (nay là huyện Sóc Sơn) để đặt mộ.

Con cháu dòng họ Nguyễn đã dựng nhà thờ ngay trên nền đất cũ, nơi ông chào đời. Hàng năm vào tháng đầu xuân, dân làng Vân Điềm lại đến từ đường họ Nguyễn, tế lễ với nghi thức tế vị Thành hoàng đã có công với quê hương, với đất nước.

Dân làng Me cũng lập bài vị và thờ ông phối hưởng với Thành hoàng làng. Suốt cuộc đời Nguyễn Thực, lúc là quan văn, khi là tướng võ, quyền cao chức trọng đến tột đỉnh, song lúc nào ông cũng sống thanh bạch chỉ một niềm lo cho nước, cho dân. Với chính tích và đức độ của mình, Nguyễn Thực đã làm rạng rỡ cho làng quê Vân Điềm (Kẻ Đóm xưa) và dòng họ Nguyễn cũng tự hào vì đã sinh ra một con người như thế./.

Theo Hà Nội Danh thắng và Di tích tập 01

Bài liên quan
(0) Bình luận
  • Bảo tàng Mỹ thuật ở giữa làng quê (huyện Ba Vì)
    Xứ Đoài là một vùng đất tối cổ - vùng địa văn hoá, địa thi hoạ - nơi mà con người có thể trải nghiệm đời mình trong hệ sinh thái tự nhiên của vùng đất, đi qua những truyền thuyết, cổ tích, để từ đó tạo nên tâm tính, giọng nói đặc trưng của con người xứ Đoài. Nắng và gió, núi và sông xứ Đoài đã gợi cảm hứng sáng tác cho một Tản Đà, một Quang Dũng và nhiều thi nhân, hoạ sĩ: từ Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí đến Sĩ Tốt, Nguyễn Tiến Chung, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng... và những thế hệ văn nghệ sĩ sau này, ở họ đều có những sáng tác xuất sắc về xứ Đoài.
  • Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày (huyện Phú Xuyên)
    Đi khắp các vùng miền của Tổ quốc, những cựu tù binh Phú Quốc đã sưu tầm kỷ vật, di vật, tranh ảnh có liên quan đến các nhà tù trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược mà đồng đội và các ông đã trải qua. Hơn 20 năm kiếm tìm và góp nhặt, Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày, do chính những người cựu tù năm xưa thành lập là những minh chứng chân thực về một thời oanh liệt và hào hùng của dân tộc.
  • Bảo tàng Quê hương phong trào chiếc gậy Trường Sơn (huyệnỨng Hoà)
    Hoà Xá là một làng quê nằm sát bờ tả sông Đáy, thuộc vùng ven chiêm trũng Khu Cháy. Nơi đây sớm có phong trào cách mạng ngay từ những năm 1930, là hậu phương trung thành của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hòa Xá được xem là quê hương của phong trào động viên thanh niên lên đường “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” và câu chuyện huyền thoại “chiếc gậy Trường Sơn”.
  • Khu Cháy, Bảo tàng Khu Cháy - một địa chỉ đỏ về truyền thống đấu tranh cách mạng ở Ứng Hoà, Phú Xuyên
    “Khu Cháy” là thuật ngữ để nói về một khu du kích trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp gồm 22 xã ở phía nam huyện Ứng Hoà và tây huyện Phú Xuyên, Hà Nội.
  • Bảo tàng Tổng cục II (quận Hoàng Mai)
    Toạ lạc tại số 322 đường Lê Trọng Tấn, quận Hoàng Mai, Hà Nội trên khuôn viên rộng 3.500m2, gồm 2 tầng nhà và phần trưng bày ngoài trời, Bảo tàng Tổng cục II hiện lưu giữ 5.830 hiện vật, trong đó có nhiều hiện vật quý hiếm gắn liền với cuộc đời hoạt động của nhiều chiến sĩ tình báo xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam. Với chức năng phục vụ công tác nghiên cứu, tham quan học tập, giáo dục truyền thống, Bảo tàng Tổng cục II chính thức được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận nằm trong hệ thống các bảo tàng cấp 2 toàn quân.
  • Bảo tàng Binh chủng Thông tin (quận Ba Đình)
    Bảo tàng Binh chủng Thông tin thuộc loại hình bảo tàng lịch sử chuyên ngành quân sự, là thể chế văn hoá, có chức năng bảo quản và trưng bày các sưu tập về lịch sử Binh chủng Thông tin liên lạc nhằm phục vụ nhu cầu nghiên cứu, giáo dục, tham quan và hưởng thụ văn hoá của cán bộ, chiến sĩ trong Binh chủng và nhân dân, bạn bè quốc tế.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
Nhà thờ Nguyễn Thực (huyện Đông Anh)
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO