Văn hóa – Di sản

Ngô Thì Du – người tiếp nối ngòi bút văn xuôi Ngô Thì Chí

Trần Thị Băng Thanh 22/11/2023 09:54

Ngô Thì Du có tên chữ là Trưng Phủ và Văn Bác, con của Ngô Thì Đạo, cháu gọi Ngô Thì Sĩ là bác ruột. Ngô Thì Đạo hiếm con trai, Ngô Thì Sĩ phải cho người con trai thứ ba (Ngô Thì Định, tên hiệu là Hy Kiều, sinh năm 1762) làm con thừa tự.

ngo-thi-du.jpg
Tranh minh họa danh nhân Ngô Thì Du.

Mười năm sau, mùa xuân năm Nhâm Thìn (1772), vợ thứ Ngô Thì Đạo mới sinh Ngô Thì Du. Lúc ấy Ngô Thì Đạo đã 40 tuổi, đang trấn nhậm ở Nghệ An. Ngô Thì Du có bảy chị em, ba người cùng mẹ, mình Thì Du là con trai, nhưng Ngô Thì Đạo vẫn coi Hy Kiều là con trưởng. Năm 1783, Hy Kiều đã đỗ Hương tiến, nhưng năm 1788 thì mất, không có con, Thì Du được giao trách nhiệm con trưởng từ đó. Ngô Thì Đạo đỗ Giải nguyên khoa Hoằng từ, cũng từng giữ chức Đại lý tự thừa, nhưng phần lớn làm quan ở các trấn. Ngô Thì Sĩ từng cho rằng chức vụ chưa xứng với tài của em nhưng an ủi hãy thử dùng dao mổ trâu trong việc mổ gà! (Tiễn em trai đi nhậm chức Tri huyện Nam Chân). Ngô Thì Đạo là người nghiêm túc, cương trực, khoảng năm 1776 được thăng chức Hiến sát ở Sơn Tây, nhưng trong triều có người gièm pha là ông dính líu đến vụ án vương tử Trịnh Lệ năm trước (Trịnh Lệ là em trai Trịnh Sâm, có ý muốn tranh ngôi chúa với anh, nhưng việc không thành). Có vị gửi thư khuyên ông nên đến “quyền môn” điều đình, nhưng ông từ chối, coi chuyện chạy chọt là một việc sỉ nhục. Ngô Thì Đạo một lòng trung thành với nhà Lê, Ngô Thì Du chịu ảnh hưởng rất đậm quan điểm ấy của cha. Thì Du có chí học tập và học giỏi nhưng không đỗ đạt. Năm 1787, khi Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc lần thứ hai, Thì Du theo cha chạy về Kim Bảng (Hà Nam), Nam Chân (nay thuộc Nam Định) và nhiều nơi khác. Lê Chiêu Thống rồi Tây Sơn vời ra làm quan, Ngô Thì Đạo đều từ chối. Ông đã làm bài thơ tám mươi vần để tỏ chí. Tướng Tây Sơn là Trần Văn Kỷ biết ông là người nghĩa khí không ép nữa, thế là từ năm 1790 được trở về quê làm ruộng, nhưng nhà cửa đã rất tiêu điều. Năm 1802, Ngô Thì Đạo mất, nhà Nguyễn lên cầm quyền, Ngô Thì Du lại rời làng chạy về quê thông gia. Năm 1803, ông dạy học ở Gia Lâm. Năm 1809, ông chuyển về Đông An, nhưng “mười năm nơi đất khách, chẳng qua cũng chỉ đủ miệng ăn, không một mảy may nào để nuôi dưỡng mẹ”. Năm 1814, ông còn có ý định theo Ngô Thì Hương lên Lạng Sơn; kế sinh nhai trong nhà vẫn một tay mẹ lo toan, trước khi mất có mấy ngày, nỗi bận tâm của bà vẫn là chuyện đói no của con cháu: “Vụ mùa này lúa tốt, xong vụ thế nào cũng bội thu, sang năm thóc lúa đủ ăn mấy tháng, mẹ không phải lo nữa” (Hành trạng của cha, mẹ, mẹ đích, mẹ sinh đã mất).

Sau khi mẹ mất, được Phạm Đình Hổ khuyến khích: “Không phải chỉ tính cho một thân mình mà còn vì gia kế” (Thư gửi quan Tế tửu Quốc tử giám họ Phạm), ông mới ra làm quan với nhà Nguyễn. Mùa xuân năm Tân Tỵ (1821), Ngô Thì Du được triệu vào Kinh đô giữ một chức từ hàn nào đó trong Sử cục. Ông lưu giữ lại được mấy tác phẩm làm trong thời gian đó (Tả miếu thi tụng, Từ Thọ cung thi tụng, Trường Ninh cung thi tụng, Hữu miếu thi tụng), nhưng có lẽ đối với ông công việc đó không mấy ý nghĩa, trái lại quan sát người ta tranh giành danh lợi, ông kinh sợ đến “râu tóc dựng đứng”. Thoái chí, Ngô Thì Du bộc lộ tâm trạng chán nản trong bài thơ dài Hành lộ nan:

Mang chút tài mọn đẽo gọt văn chương,

Đi nghìn dặm đến kinh đô.

Ngựa xoàng bám nhờ đuôi ngựa ký,

Con thuyền đơn lẻ ra giữa trùng khơi.

Huống nữa trong gia đình lại liên tiếp xảy ra biến cố: ông vừa đi được vài tháng thì đứa con trai mới bốn tuổi khôi ngô mắc bệnh không cứu được, năm trước (1820), người anh con bác là Ngô Thì Hương mất, cùng năm một người cháu làm quan Trấn (là Ngô Thì Lữ) cũng qua đời. (Ngô Thì Hương, con trai út Ngô Thì Sĩ; Ngô Thì Lữ là con trai Ngô Thì Chí, cả hai đều là tác giả trong Ngô gia văn phái).

Riêng mình thì tuổi đã không còn trẻ, ông nhìn con đường phía trước một cách vô vọng:

Chiều muộn đường còn xa,

Trong lòng ngổn ngang trăm mối.

Nhà nghèo chi dùng không đủ,

Con nhỏ, sự việc chẳng thay đổi.

Năm nào cũng mãi làm khách,

Tuổi thọ con người được bao nhiêu mà chờ thời cơ!

Ngô Thì Du đau đáu nhớ quê hương, nơi đó, đất Long Biên dưới vùng trời sao Bắc Đẩu, có ngôi nhà bên sông Nhuệ mà đêm đêm ông tìm về trong giấc mộng. Ông muốn “lui về ngay”, “không sợ vất vả trèo nghìn ngọn núi, qua vạn con sông”, nhưng “có một chức quan, việc đi hay dừng đâu có dễ gì!”. Ông nhớ quê, nhớ nhà mà chỉ đành trông sao Bắc Đẩu. Trong thời gian ở Xuân Kinh bài Vọng Đẩu ca là tác phẩm hay nhất viết về gia đình. Không rõ Ngô Thì Du đề đạt nguyện vọng nghỉ quan bằng cách nào, sau triều đình cũng chấp thuận cho về Bắc giữ chức Đốc học Hải Dương để được gần quê nhà. Ông rất cảm kích, nhân dịp này viết bài Hải Dương trấn học đường minh ca ngợi triều đình, cảm tạ ơn vua và hứa cố gắng hết sức làm cho “nhân tài Hải Dương phấn phát mạnh mẽ”. Song không được bao lâu, quan Đốc lại buồn nản, nhớ quê và thành bệnh. Thêm nữa, lương bổng cũng ít ỏi, Ngô Thì Du gửi thư cho một vị Thị lang bộ Binh họ Nguyễn (Dữ Binh Thị Nguyễn đài thư) nhờ xin cho về nghỉ. Lý do của ông là bệnh tật khiến ông làm việc không có hiệu quả, “Một năm chỉ giảng học được bốn tháng, suốt ngày đóng cửa ngồi sắc thuốc, công sở học đường đã biến thành nhà dưỡng bệnh”, mà “Bệnh do tâm sinh, thuốc không chữa được”, tâm nguyện “chim mỏi mong được về rừng”... Đến năm 1827, nguyện vọng của ông được phê chuẩn. Từ đó ông ở lỳ tại quê nhà cho đến khi qua đời vào năm 1840. Bài thơ Cảm hoài, có thể làm trong dịp này, như một cái nhìn tổng quát lại cả cuộc đời gian nan vất vả. Bảy chị em ông, bốn người đã mất trước chỉ còn lại ba, lúc này tuổi đã lớn, chị trên sáu mươi, em gái trên năm mươi, Ngô Thì Du năm mươi sáu, gia cảnh cũng vẫn khó khăn. Riêng em gái ông được nhờ bên chồng cũng tạm khá giả, còn chị gái, chồng và con đều mất sớm, một mình nghèo túng lênh đênh. Bản thân ông thì:

Tiếng là được một chức quan,

Thực ra vẫn cứ nghèo mãi.

Năm được mùa nhà thường đói,

Một tấm áo qua năm lần năm mới.

(Cảm hoài)

Tâm trạng Ngô Thì Du không lúc nào vui, cũng khá điển hình cho lớp trí thức Bắc Hà đầu đời Nguyễn, làm quan thân ở Kinh đô mà tâm gửi lại phía bắc Hoành Sơn. Trong một ngày khai bút đầu xuân, ông viết: “Kẻ sĩ không được dự vào hàng công khanh có cái không may mà cũng có cái may” (Tân Tỵ xuân khai bút đề). Tuy vậy ông không phải người khinh bạc, nặng tình gia đình, nhưng chưa bao giờ có cách nghĩ vượt khuôn phép như người bác giàu tính nghệ sĩ của mình: “Nếu biết đi làm quan xa mà chuốc lấy nỗi khổ chia ly thế này thì tước vạn hộ hầu cũng chẳng thiết”. (Ngô Thì Sĩ: Sau khi vợ cả mất, vợ thứ tôi trông nom việc nhà, cũng hiền thục có đức, tôi đang mừng vì đẹp duyên đôi lúa lại càng đau buồn vì sự chia lìa, cảm xúc làm thành một bài thơ luật Đường). Ngô Thì Du cũng quan niệm rất nghiêm túc về học hạnh của kẻ sĩ:

Ta nghe nói Tiến sĩ là người có tài và đức hạnh,

Lại được tiền nhân làm điều thiện, để lại phúc lành.

Nếu không thế, chỉ theo học mà đạt đến,

Thì cũng là bậc danh Nho tú tài lão luyện.

Vì thế tục truyền cổ nhân có nêu năm điều:

Một là duyên, hai là phận, ba là phóc đất,

Bốn là tích âm công, năm là đọc sách.

Bỏ ngoài những điều đó thì nghĩa lý ở đâu?

(Báo Ân tháp giải)

Ngô Thì Du cũng là người con rất hiếu nghĩa, một nho gia. Trong số tác phẩm còn lại của ông, nhiều bài nói về đạo hiếu, về những nghi thức lễ tiết trong gia đình theo quan niệm nho gia: Truy viễn đàn thăng hữu nghị, Gia từ sùng phụng nghị, Truy viễn đàn truy tế phú, Huấn tử phú, Nhiếp tế phú... Bài Can cách yếu thoại (Lời cốt yếu trong tâm can), có lẽ được viết trước lúc mất không lâu, dặn dò rất cẩn thận mọi việc tang té sau khi ông qua đời, từ đồ khâm liệm, đất mộ, lễ điện, đề chủ, tất cả đều cần kiệm theo gia cảnh nhưng không trái với Bách niên thư chí. Cuối cùng ông kết luận: “Trên đây là nói một cách đại khái về việc khâm liệm, còn cái tình thì không nỡ nói mà nói cũng không cùng, các con hiểu ý những điều không nói, suy ra mà làm, cũng không can gì”...

Ngô Thì Du rất ít làm thơ trữ tình. 76 bài tập hợp trong Trưng Phủ công thi văn có khoảng 12 bài thơ, trong đó chỉ có một bài thất ngôn bát mà ông gọi là khúc – Hồng lâu khúc, phần còn lại là thơ cổ thể trường thiên gồm cả các loại ca, ngâm, trong đó có một bài ông gọi “nhạc chương” (chưa rõ dùng cho điệu nhạc nào?). Trong thơ của ông cũng vắng bóng giai nhân, dù Hồng lâu khúcSơn trủng cầm tháo có nói đến Huyền Trân và chuyện một người đẹp nước Ngô, nhưng Ngô Thì Du cũng không bộc lộ tình cảm cá nhân. Ngô Thì Du đúng là con người của đạo đức, của gia đình, một nho gia chừng mực. Những khoảnh khắc “chơi vơi” một chút với thiên nhiên, cây cỏ - Hãn mạn ngâm, Tài cúc thuyết - là rất hiếm hoi. Trong tác phẩm của ông, ngoài những điều về chí hướng, thân phận kẻ sĩ, ông dành tình cảm sâu đậm cho gia đình - cha mẹ, anh chị em và con cháu. Ông viết hành trạng cho cha, mẹ đích, mẹ sinh, chị dâu (vợ Ngô Thì Chí), viếng anh rể, khóc đứa con nhỏ, thư cho các con, cho em... đều với lối văn giản dị, ân tình, thể hiện tình cảm chân thành dễ khiến người đọc xúc động. Tuy nhiên, trong chùm tác phẩm về chủ đề gia đình, hai bài Vọng Đẩu caVăn thương nhi là hai tác phẩm đặc sắc, được Ngô Thì Du thổ lộ tình cảm sâu kín nhất trong lòng. Chỉ với bài Văn thương nhi người đọc mới thấy ở Ngô Thì Du một ông bố “mềm yếu”, một tình cảm cha con xanh tươi bản chất tự nhiên, và cũng do đó mà xót xa đau đớn quan thắt: “Nuôi con đến nay được bốn tuổi/ Khi ở nhà, con ngồi bên gối cha/ Khi đi con nắm áo cha/ Mỗi bước đi lại ngoái nhìn, cha con nương tựa nhau”. Vào Kinh làm quan, Ngô Thì Du mang theo hình ảnh ấy của con, nghĩ rằng ngày về con lớn, cha con sẽ vui vầy, chính vì thế nghe tin dữ, tâm trí ông rối loạn những câu hỏi: “Con bị bệnh gì? Con uống thuốc gì? Ai chữa cho con? Bệnh con như thế nào mà đột nhiên trở nặng? Bệnh tình ra sao mà rốt cuộc chịu bó tay?..”. Ngô Thì Du đau đớn vì bất lực trước hoàn cảnh: “Muốn về ngay chẳng được, ôm nỗi lòng bi thương/ Nhìn mãi ra cửa Bắc, mây trắng bay cô đơn/ Cớ sao ra nỗi ấy, ai người gây đau thương?”. Ngô Thì Du yêu con, nhưng trong từng ấy tác phẩm ông chưa từng chính thức nhắc đến vợ. Tuy vậy nếu đọc kỹ Vọng Đẩu ca sẽ thấy nỗi niềm “gia thất” ông gửi gắm trong đó. Những tứ thơ: giấc mộng đêm đêm, lòng bồi hồi rối loạn khi tỉnh giấc, điển cố phép rút đất của Phí Trường Phòng, thường dùng chỉ việc về thăm nhà và lời nói ý tứ “Chàng có lòng chàng tự hiểu, lại có thể nói với người nào bên cạnh?” có thể cho phép nghĩ Ngô Thì Du đang nói về tình cảm của mình với người thân thiết, yêu thương nhất và lời văn cũng da diết nhất.

Ngô Thì Du đặc biệt ưa viết các thể loại văn xuôi và phú. Ông có 11 bài phú, về số lượng bài chỉ đứng sau Ngô Thì Nhậm trong Văn phái, riêng văn xuôi thì các thể rất phong phú, bao gồm cả bị văn, vãn, truyện, minh, thuyết. Theo Ngô gia thế phả, ông còn là tác giả 7 hồi (hồi 7 đến hồi 14) cuốn Hoàng Lê nhất thống chí. Văn xuôi của Ngô Thì Du chững chạc, dù chỉ là văn ghi chép nhưng qua cách kể của ông, tính cách nhân vật cũng được thể hiện rõ ràng (như bài Hành trạng của cha, mẹ đích, mẹ sinhThứ tẩu phu nhân lỗi từ). Điều đó cho phép chúng ta tin lời ghi của Ngô gia thế phả. Với bảy hồi này, Ngô Thì Du đã nối tiếp được mạch văn Ngô Thì Chí, tạo nên những giá trị nghệ thuật kiệt xuất cho Hoàng Lê nhất thống chí, một đỉnh cao của thể loại truyện chương hồi viết bằng chữ Hán của văn học Việt Nam. Tác phẩm của Ngô Thì Du còn lại không nhiều nhưng ông cũng là một tác giả có những đóng góp đặc sắc riêng cho Ngô gia văn phái./.

Theo Danh nhân Thăng Long - Hà Nội

Bài liên quan
  • Trần Quang Khải – thượng tướng, nhà thơ
    Trần Quang Khải là con trai thứ ba Trần Thái Tông, sinh năm 1240, mất năm 1294. Dưới triều Trần Thánh Tông (1258-1278), Trần Quang Khải được phong tước Chiêu Minh đại vương. Năm 1274, ông được giao chức Tướng quốc thái úy.
(0) Bình luận
  • Bảo tồn, phát huy giá trị Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia dệt Dèng A Lưới
    Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia nghề dệt Dèng của đồng bào các dân tộc huyện A Lưới (TP Huế) đang được bảo tồn và phát huy giá trị với các sản phẩm văn hóa kết hợp hiện đại phục vụ du lịch, trải nghiệm, trình diễn thời trang.
  • Đình, chùa Tây Vị được công nhận là di tích lịch sử, nghệ thuật cấp thành phố
    Chùa Tây Vị không chỉ là nơi thờ Phật, mà còn là trung tâm sinh hoạt tôn giáo, một biểu tượng cố kết cộng đồng từ xưa đến nay. Sự tồn tại của ngôi chùa là minh chứng cho thấy sự hưng thịnh và tầm ảnh hưởng của Phật giáo đối với người dân nơi đây.
  • Nghệ sĩ Phạm Ngọc Trâm: Kể chuyện di sản bằng đường thêu nét nhuộm
    Giữa nhịp sống hiện đại, khi nhiều nghề thủ công truyền thống dần bị lãng quên, nghệ sĩ Phạm Ngọc Trâm lại chọn gắn bó với nghệ thuật thêu - một công việc đòi hỏi sự tỉ mỉ, kiên trì và cả chiều sâu văn hóa. Không chỉ nghiên cứu, thực hành nghệ thuật, chị còn là người kết nối textile art (nghệ thuật tạo hình từ sợi vải) với di sản văn hóa Việt Nam, khám phá và tái hiện những giá trị thêu cổ bằng góc nhìn đương đại. Từ xưởng thêu ven sông Hội An đến các triển lãm, workshop, hành trình của Ngọc Trâm là sự kết hợp giữa nghiên cứu, sáng tạo và gìn giữ ký ức dân tộc, nơi mỗi mũi chỉ, đường kim đều kể một câu chuyện về truyền thống và bản sắc.
  • "Hội diều làng Bá Dương Nội" đón nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
    Chiều 12/4, huyện Đan Phượng (Hà Nội) tổ chức Lễ đón nhận Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia “Hội Diều làng Bá Dương Nội” và Bằng công nhận danh hiệu “Nghề truyền thống Hà Nội” đối với nghề làm diều sáo làng Bá Dương Nội, xã Hồng Hà, huyện Đan Phượng.
  • Lễ hội Tổng Nam Phù vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia
    Lễ hội Tổng Nam Phù được ghi danh vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia là minh chứng cho những giá trị văn hóa được bảo tồn và phát huy qua nhiều thế hệ, là biểu tượng cho sự gắn kết cộng đồng, nơi truyền thống được tôn vinh và giá trị văn hóa được thắp sáng hôm nay và mai sau.
  • Nghề làm chiếu Cà Hom trở thành di sản quốc gia
    Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng vừa ký Quyết định số 2321/QĐ-BVHTTDL đưa Nghề làm chiếu Cà Hom của người Khmer xã Hàm Tân, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, loại hình nghề thủ công truyền thống.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • "Gia đình, bạn bè và đất nước" - Hồi ký sinh động về cuộc đời bà Nguyễn Thị Bình
    Nhằm tái hiện chân thực cuộc đời của bà Nguyễn Thị Bình - một nhân chứng lịch sử đã trực tiếp tham gia và chứng kiến những biến cố, thăng trầm của dân tộc trong thế kỷ XX - từ thời thơ ấu, quá trình tham gia hoạt động cách mạng đến những dấu mốc quan trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập, và cả những năm tháng sau khi nghỉ hưu, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã xuất bản lần thứ hai cuốn sách “Gia đình, bạn bè và đất nước”.
  • Nhiều chương trình nghệ thuật đặc biệt chào mừng 50 năm ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước
    Chuỗi chương trình nghệ thuật mừng 50 năm ngày đất nước thống nhất không chỉ là hoạt động kỷ niệm, mà còn là dịp để văn hóa nghệ thuật khơi dậy niềm tự hào dân tộc, hun đúc tinh thần yêu nước trong mỗi người dân Việt Nam hôm nay và mai sau. Đây là sự tri ân sâu sắc đối với quá khứ, là niềm tin vào hiện tại, và là khát vọng vươn tới tương lai của một dân tộc bất khuất, kiêu hùng.
  • Ngày Sách và Văn hóa đọc năm 2025: "Mỗi trang sách – Một niềm tự hào"
    Với chủ đề "Mỗi trang sách – Một niềm tự hào", Ngày Sách và Văn hóa đọc năm 2025 tại Thư viện Quốc gia Việt Nam sẽ diễn ra vào ngày 19/4/2025 với nhiều hoạt động hấp dẫn.
  • Quận Hà Đông: Tổ chức nhiều hoạt động kỷ niệm 50 năm Giải phóng miền Nam
    Kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025); 139 năm Ngày Quốc tế Lao động (1/5/1886 - 1/5/2025); 71 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2025) và 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2025), quận Hà Đông (Hà Nội) tổ chức nhiều hoạt động trang trọng và ý nghĩa.
  • [Podcast] Bún đậu mắm tôm – Món ăn dân dã của người Hà Nội
    Hà Nội có rất nhiều món ăn ngon được thực khách ưa thích gắn với “bún” như: bún chả, bún cá, bún ốc nguội… Trong số đó các món ăn đó không thể thiếu bún đậu mắm tôm Hà Nội - món ngon làm "xiêu lòng" các tín đồ ẩm thực. Không chỉ là một món ăn, bún đậu còn mang đậm nét văn hóa, gắn liền với lối sống và phong cách ẩm thực rất đỗi bình dị của người Việt nói chung, Hà Nội nói riêng.
Đừng bỏ lỡ
  • Huyện Đông Anh: Phát huy truyền thống quê hương trong kháng chiến chống Mỹ
    Ngày 15/4, huyện Đông Anh đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/04/1975-30/04/2025) và gặp mặt, tri ân cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong, cựu công an nhân dân trực tiếp tham gia kháng chiến chống Mỹ.
  • Triển lãm “Từ Chiến thắng Điện Biên Phủ đến Đại thắng mùa Xuân năm 1975”: Khơi dậy niềm tự hào dân tộc
    Thông tin từ Sở Văn hóa – Thể thao TP. Hồ Chí Minh cho biết, chào mừng Kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2025), sáng 15/4 tại Bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh đã diễn ra Lễ khai mạc triển lãm “Từ Chiến thắng Điện Biên Phủ đến Đại thắng mùa Xuân năm 1975”.
  • Bảo tồn, phát huy giá trị Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia dệt Dèng A Lưới
    Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia nghề dệt Dèng của đồng bào các dân tộc huyện A Lưới (TP Huế) đang được bảo tồn và phát huy giá trị với các sản phẩm văn hóa kết hợp hiện đại phục vụ du lịch, trải nghiệm, trình diễn thời trang.
  • Tạo sức bật phát triển du lịch làng nghề Thủ đô
    Hà Nội đã xây dựng và tiến tới ban hành Nghị quyết phát triển khu thương mại và văn hóa. Dự thảo Nghị quyết này đang được Thành phố Hà Nội lấy ý kiến nhân dân, tạo hành lang pháp lý quan trọng, huy động nguồn lực xã hội cho phát triển thương mại - văn hóa - du lịch, nhất là du lịch làng nghề Thủ đô có rất nhiều tiềm năng, thế mạnh.
  • Đình, chùa Tây Vị được công nhận là di tích lịch sử, nghệ thuật cấp thành phố
    Chùa Tây Vị không chỉ là nơi thờ Phật, mà còn là trung tâm sinh hoạt tôn giáo, một biểu tượng cố kết cộng đồng từ xưa đến nay. Sự tồn tại của ngôi chùa là minh chứng cho thấy sự hưng thịnh và tầm ảnh hưởng của Phật giáo đối với người dân nơi đây.
  • Nghệ sĩ Phạm Ngọc Trâm: Kể chuyện di sản bằng đường thêu nét nhuộm
    Giữa nhịp sống hiện đại, khi nhiều nghề thủ công truyền thống dần bị lãng quên, nghệ sĩ Phạm Ngọc Trâm lại chọn gắn bó với nghệ thuật thêu - một công việc đòi hỏi sự tỉ mỉ, kiên trì và cả chiều sâu văn hóa. Không chỉ nghiên cứu, thực hành nghệ thuật, chị còn là người kết nối textile art (nghệ thuật tạo hình từ sợi vải) với di sản văn hóa Việt Nam, khám phá và tái hiện những giá trị thêu cổ bằng góc nhìn đương đại. Từ xưởng thêu ven sông Hội An đến các triển lãm, workshop, hành trình của Ngọc Trâm là sự kết hợp giữa nghiên cứu, sáng tạo và gìn giữ ký ức dân tộc, nơi mỗi mũi chỉ, đường kim đều kể một câu chuyện về truyền thống và bản sắc.
  • Lễ hội Quà tặng Du lịch Hà Nội 2025 thu hút trên 3 vạn lượt khách
    Với nhiều hoạt động phong phú và đặc sắc tôn vinh những giá trị di sản văn hóa của Thủ đô, Lễ hội Quà tặng Du lịch Hà Nội 2025 chủ đề “Du lịch Hà Nội - Điểm đến di sản thế giới” đã thu hút trên 3 vạn lượt khách tham quan.
  • Triển lãm "Áo dài phụ nữ Việt Nam đi qua khói lửa chiến tranh"
    Nhân kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025), từ ngày 12/4/2025 đến hết ngày 4/5/2025, tại Bảo tàng Hà Nội diễn ra Triển lãm “Áo dài phụ nữ Việt Nam đi qua khói lửa chiến tranh”.
  • Ra mắt hai tập thơ và truyện ký về kháng chiến của nhà thơ Nguyễn Văn Á
    Ngày 12/4, tại Hà Nội, nhà thơ Nguyễn Văn Á ra mắt tập thơ “Giọt sương bên cửa sổ” (Nhà Xuất bản Hội Nhà văn) và tập truyện ký “Phía Nam sông Bến Hải” (Nhà Xuất bản Văn học) nhân kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2025).
  • Liên hiệp các hội VHNT Việt Nam khai mạc trại sáng tác tại Hà Nam
    Trại sáng tác diễn ra từ ngày 11 - 17/4, với sự tham gia của 26 tác giả trong lĩnh vực văn học, mỹ thuật, nhiếp ảnh, âm nhạc của các địa phương khu vực Đồng bằng sông Hồng gồm: Nam Định, Ninh Bình, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam và tác giả thuộc hội chuyên ngành Trung ương.
Ngô Thì Du – người tiếp nối ngòi bút văn xuôi Ngô Thì Chí
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO