Văn hóa – Di sản

Ngô Thì Du – người tiếp nối ngòi bút văn xuôi Ngô Thì Chí

Trần Thị Băng Thanh 22/11/2023 09:54

Ngô Thì Du có tên chữ là Trưng Phủ và Văn Bác, con của Ngô Thì Đạo, cháu gọi Ngô Thì Sĩ là bác ruột. Ngô Thì Đạo hiếm con trai, Ngô Thì Sĩ phải cho người con trai thứ ba (Ngô Thì Định, tên hiệu là Hy Kiều, sinh năm 1762) làm con thừa tự.

ngo-thi-du.jpg
Tranh minh họa danh nhân Ngô Thì Du.

Mười năm sau, mùa xuân năm Nhâm Thìn (1772), vợ thứ Ngô Thì Đạo mới sinh Ngô Thì Du. Lúc ấy Ngô Thì Đạo đã 40 tuổi, đang trấn nhậm ở Nghệ An. Ngô Thì Du có bảy chị em, ba người cùng mẹ, mình Thì Du là con trai, nhưng Ngô Thì Đạo vẫn coi Hy Kiều là con trưởng. Năm 1783, Hy Kiều đã đỗ Hương tiến, nhưng năm 1788 thì mất, không có con, Thì Du được giao trách nhiệm con trưởng từ đó. Ngô Thì Đạo đỗ Giải nguyên khoa Hoằng từ, cũng từng giữ chức Đại lý tự thừa, nhưng phần lớn làm quan ở các trấn. Ngô Thì Sĩ từng cho rằng chức vụ chưa xứng với tài của em nhưng an ủi hãy thử dùng dao mổ trâu trong việc mổ gà! (Tiễn em trai đi nhậm chức Tri huyện Nam Chân). Ngô Thì Đạo là người nghiêm túc, cương trực, khoảng năm 1776 được thăng chức Hiến sát ở Sơn Tây, nhưng trong triều có người gièm pha là ông dính líu đến vụ án vương tử Trịnh Lệ năm trước (Trịnh Lệ là em trai Trịnh Sâm, có ý muốn tranh ngôi chúa với anh, nhưng việc không thành). Có vị gửi thư khuyên ông nên đến “quyền môn” điều đình, nhưng ông từ chối, coi chuyện chạy chọt là một việc sỉ nhục. Ngô Thì Đạo một lòng trung thành với nhà Lê, Ngô Thì Du chịu ảnh hưởng rất đậm quan điểm ấy của cha. Thì Du có chí học tập và học giỏi nhưng không đỗ đạt. Năm 1787, khi Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc lần thứ hai, Thì Du theo cha chạy về Kim Bảng (Hà Nam), Nam Chân (nay thuộc Nam Định) và nhiều nơi khác. Lê Chiêu Thống rồi Tây Sơn vời ra làm quan, Ngô Thì Đạo đều từ chối. Ông đã làm bài thơ tám mươi vần để tỏ chí. Tướng Tây Sơn là Trần Văn Kỷ biết ông là người nghĩa khí không ép nữa, thế là từ năm 1790 được trở về quê làm ruộng, nhưng nhà cửa đã rất tiêu điều. Năm 1802, Ngô Thì Đạo mất, nhà Nguyễn lên cầm quyền, Ngô Thì Du lại rời làng chạy về quê thông gia. Năm 1803, ông dạy học ở Gia Lâm. Năm 1809, ông chuyển về Đông An, nhưng “mười năm nơi đất khách, chẳng qua cũng chỉ đủ miệng ăn, không một mảy may nào để nuôi dưỡng mẹ”. Năm 1814, ông còn có ý định theo Ngô Thì Hương lên Lạng Sơn; kế sinh nhai trong nhà vẫn một tay mẹ lo toan, trước khi mất có mấy ngày, nỗi bận tâm của bà vẫn là chuyện đói no của con cháu: “Vụ mùa này lúa tốt, xong vụ thế nào cũng bội thu, sang năm thóc lúa đủ ăn mấy tháng, mẹ không phải lo nữa” (Hành trạng của cha, mẹ, mẹ đích, mẹ sinh đã mất).

Sau khi mẹ mất, được Phạm Đình Hổ khuyến khích: “Không phải chỉ tính cho một thân mình mà còn vì gia kế” (Thư gửi quan Tế tửu Quốc tử giám họ Phạm), ông mới ra làm quan với nhà Nguyễn. Mùa xuân năm Tân Tỵ (1821), Ngô Thì Du được triệu vào Kinh đô giữ một chức từ hàn nào đó trong Sử cục. Ông lưu giữ lại được mấy tác phẩm làm trong thời gian đó (Tả miếu thi tụng, Từ Thọ cung thi tụng, Trường Ninh cung thi tụng, Hữu miếu thi tụng), nhưng có lẽ đối với ông công việc đó không mấy ý nghĩa, trái lại quan sát người ta tranh giành danh lợi, ông kinh sợ đến “râu tóc dựng đứng”. Thoái chí, Ngô Thì Du bộc lộ tâm trạng chán nản trong bài thơ dài Hành lộ nan:

Mang chút tài mọn đẽo gọt văn chương,

Đi nghìn dặm đến kinh đô.

Ngựa xoàng bám nhờ đuôi ngựa ký,

Con thuyền đơn lẻ ra giữa trùng khơi.

Huống nữa trong gia đình lại liên tiếp xảy ra biến cố: ông vừa đi được vài tháng thì đứa con trai mới bốn tuổi khôi ngô mắc bệnh không cứu được, năm trước (1820), người anh con bác là Ngô Thì Hương mất, cùng năm một người cháu làm quan Trấn (là Ngô Thì Lữ) cũng qua đời. (Ngô Thì Hương, con trai út Ngô Thì Sĩ; Ngô Thì Lữ là con trai Ngô Thì Chí, cả hai đều là tác giả trong Ngô gia văn phái).

Riêng mình thì tuổi đã không còn trẻ, ông nhìn con đường phía trước một cách vô vọng:

Chiều muộn đường còn xa,

Trong lòng ngổn ngang trăm mối.

Nhà nghèo chi dùng không đủ,

Con nhỏ, sự việc chẳng thay đổi.

Năm nào cũng mãi làm khách,

Tuổi thọ con người được bao nhiêu mà chờ thời cơ!

Ngô Thì Du đau đáu nhớ quê hương, nơi đó, đất Long Biên dưới vùng trời sao Bắc Đẩu, có ngôi nhà bên sông Nhuệ mà đêm đêm ông tìm về trong giấc mộng. Ông muốn “lui về ngay”, “không sợ vất vả trèo nghìn ngọn núi, qua vạn con sông”, nhưng “có một chức quan, việc đi hay dừng đâu có dễ gì!”. Ông nhớ quê, nhớ nhà mà chỉ đành trông sao Bắc Đẩu. Trong thời gian ở Xuân Kinh bài Vọng Đẩu ca là tác phẩm hay nhất viết về gia đình. Không rõ Ngô Thì Du đề đạt nguyện vọng nghỉ quan bằng cách nào, sau triều đình cũng chấp thuận cho về Bắc giữ chức Đốc học Hải Dương để được gần quê nhà. Ông rất cảm kích, nhân dịp này viết bài Hải Dương trấn học đường minh ca ngợi triều đình, cảm tạ ơn vua và hứa cố gắng hết sức làm cho “nhân tài Hải Dương phấn phát mạnh mẽ”. Song không được bao lâu, quan Đốc lại buồn nản, nhớ quê và thành bệnh. Thêm nữa, lương bổng cũng ít ỏi, Ngô Thì Du gửi thư cho một vị Thị lang bộ Binh họ Nguyễn (Dữ Binh Thị Nguyễn đài thư) nhờ xin cho về nghỉ. Lý do của ông là bệnh tật khiến ông làm việc không có hiệu quả, “Một năm chỉ giảng học được bốn tháng, suốt ngày đóng cửa ngồi sắc thuốc, công sở học đường đã biến thành nhà dưỡng bệnh”, mà “Bệnh do tâm sinh, thuốc không chữa được”, tâm nguyện “chim mỏi mong được về rừng”... Đến năm 1827, nguyện vọng của ông được phê chuẩn. Từ đó ông ở lỳ tại quê nhà cho đến khi qua đời vào năm 1840. Bài thơ Cảm hoài, có thể làm trong dịp này, như một cái nhìn tổng quát lại cả cuộc đời gian nan vất vả. Bảy chị em ông, bốn người đã mất trước chỉ còn lại ba, lúc này tuổi đã lớn, chị trên sáu mươi, em gái trên năm mươi, Ngô Thì Du năm mươi sáu, gia cảnh cũng vẫn khó khăn. Riêng em gái ông được nhờ bên chồng cũng tạm khá giả, còn chị gái, chồng và con đều mất sớm, một mình nghèo túng lênh đênh. Bản thân ông thì:

Tiếng là được một chức quan,

Thực ra vẫn cứ nghèo mãi.

Năm được mùa nhà thường đói,

Một tấm áo qua năm lần năm mới.

(Cảm hoài)

Tâm trạng Ngô Thì Du không lúc nào vui, cũng khá điển hình cho lớp trí thức Bắc Hà đầu đời Nguyễn, làm quan thân ở Kinh đô mà tâm gửi lại phía bắc Hoành Sơn. Trong một ngày khai bút đầu xuân, ông viết: “Kẻ sĩ không được dự vào hàng công khanh có cái không may mà cũng có cái may” (Tân Tỵ xuân khai bút đề). Tuy vậy ông không phải người khinh bạc, nặng tình gia đình, nhưng chưa bao giờ có cách nghĩ vượt khuôn phép như người bác giàu tính nghệ sĩ của mình: “Nếu biết đi làm quan xa mà chuốc lấy nỗi khổ chia ly thế này thì tước vạn hộ hầu cũng chẳng thiết”. (Ngô Thì Sĩ: Sau khi vợ cả mất, vợ thứ tôi trông nom việc nhà, cũng hiền thục có đức, tôi đang mừng vì đẹp duyên đôi lúa lại càng đau buồn vì sự chia lìa, cảm xúc làm thành một bài thơ luật Đường). Ngô Thì Du cũng quan niệm rất nghiêm túc về học hạnh của kẻ sĩ:

Ta nghe nói Tiến sĩ là người có tài và đức hạnh,

Lại được tiền nhân làm điều thiện, để lại phúc lành.

Nếu không thế, chỉ theo học mà đạt đến,

Thì cũng là bậc danh Nho tú tài lão luyện.

Vì thế tục truyền cổ nhân có nêu năm điều:

Một là duyên, hai là phận, ba là phóc đất,

Bốn là tích âm công, năm là đọc sách.

Bỏ ngoài những điều đó thì nghĩa lý ở đâu?

(Báo Ân tháp giải)

Ngô Thì Du cũng là người con rất hiếu nghĩa, một nho gia. Trong số tác phẩm còn lại của ông, nhiều bài nói về đạo hiếu, về những nghi thức lễ tiết trong gia đình theo quan niệm nho gia: Truy viễn đàn thăng hữu nghị, Gia từ sùng phụng nghị, Truy viễn đàn truy tế phú, Huấn tử phú, Nhiếp tế phú... Bài Can cách yếu thoại (Lời cốt yếu trong tâm can), có lẽ được viết trước lúc mất không lâu, dặn dò rất cẩn thận mọi việc tang té sau khi ông qua đời, từ đồ khâm liệm, đất mộ, lễ điện, đề chủ, tất cả đều cần kiệm theo gia cảnh nhưng không trái với Bách niên thư chí. Cuối cùng ông kết luận: “Trên đây là nói một cách đại khái về việc khâm liệm, còn cái tình thì không nỡ nói mà nói cũng không cùng, các con hiểu ý những điều không nói, suy ra mà làm, cũng không can gì”...

Ngô Thì Du rất ít làm thơ trữ tình. 76 bài tập hợp trong Trưng Phủ công thi văn có khoảng 12 bài thơ, trong đó chỉ có một bài thất ngôn bát mà ông gọi là khúc – Hồng lâu khúc, phần còn lại là thơ cổ thể trường thiên gồm cả các loại ca, ngâm, trong đó có một bài ông gọi “nhạc chương” (chưa rõ dùng cho điệu nhạc nào?). Trong thơ của ông cũng vắng bóng giai nhân, dù Hồng lâu khúcSơn trủng cầm tháo có nói đến Huyền Trân và chuyện một người đẹp nước Ngô, nhưng Ngô Thì Du cũng không bộc lộ tình cảm cá nhân. Ngô Thì Du đúng là con người của đạo đức, của gia đình, một nho gia chừng mực. Những khoảnh khắc “chơi vơi” một chút với thiên nhiên, cây cỏ - Hãn mạn ngâm, Tài cúc thuyết - là rất hiếm hoi. Trong tác phẩm của ông, ngoài những điều về chí hướng, thân phận kẻ sĩ, ông dành tình cảm sâu đậm cho gia đình - cha mẹ, anh chị em và con cháu. Ông viết hành trạng cho cha, mẹ đích, mẹ sinh, chị dâu (vợ Ngô Thì Chí), viếng anh rể, khóc đứa con nhỏ, thư cho các con, cho em... đều với lối văn giản dị, ân tình, thể hiện tình cảm chân thành dễ khiến người đọc xúc động. Tuy nhiên, trong chùm tác phẩm về chủ đề gia đình, hai bài Vọng Đẩu caVăn thương nhi là hai tác phẩm đặc sắc, được Ngô Thì Du thổ lộ tình cảm sâu kín nhất trong lòng. Chỉ với bài Văn thương nhi người đọc mới thấy ở Ngô Thì Du một ông bố “mềm yếu”, một tình cảm cha con xanh tươi bản chất tự nhiên, và cũng do đó mà xót xa đau đớn quan thắt: “Nuôi con đến nay được bốn tuổi/ Khi ở nhà, con ngồi bên gối cha/ Khi đi con nắm áo cha/ Mỗi bước đi lại ngoái nhìn, cha con nương tựa nhau”. Vào Kinh làm quan, Ngô Thì Du mang theo hình ảnh ấy của con, nghĩ rằng ngày về con lớn, cha con sẽ vui vầy, chính vì thế nghe tin dữ, tâm trí ông rối loạn những câu hỏi: “Con bị bệnh gì? Con uống thuốc gì? Ai chữa cho con? Bệnh con như thế nào mà đột nhiên trở nặng? Bệnh tình ra sao mà rốt cuộc chịu bó tay?..”. Ngô Thì Du đau đớn vì bất lực trước hoàn cảnh: “Muốn về ngay chẳng được, ôm nỗi lòng bi thương/ Nhìn mãi ra cửa Bắc, mây trắng bay cô đơn/ Cớ sao ra nỗi ấy, ai người gây đau thương?”. Ngô Thì Du yêu con, nhưng trong từng ấy tác phẩm ông chưa từng chính thức nhắc đến vợ. Tuy vậy nếu đọc kỹ Vọng Đẩu ca sẽ thấy nỗi niềm “gia thất” ông gửi gắm trong đó. Những tứ thơ: giấc mộng đêm đêm, lòng bồi hồi rối loạn khi tỉnh giấc, điển cố phép rút đất của Phí Trường Phòng, thường dùng chỉ việc về thăm nhà và lời nói ý tứ “Chàng có lòng chàng tự hiểu, lại có thể nói với người nào bên cạnh?” có thể cho phép nghĩ Ngô Thì Du đang nói về tình cảm của mình với người thân thiết, yêu thương nhất và lời văn cũng da diết nhất.

Ngô Thì Du đặc biệt ưa viết các thể loại văn xuôi và phú. Ông có 11 bài phú, về số lượng bài chỉ đứng sau Ngô Thì Nhậm trong Văn phái, riêng văn xuôi thì các thể rất phong phú, bao gồm cả bị văn, vãn, truyện, minh, thuyết. Theo Ngô gia thế phả, ông còn là tác giả 7 hồi (hồi 7 đến hồi 14) cuốn Hoàng Lê nhất thống chí. Văn xuôi của Ngô Thì Du chững chạc, dù chỉ là văn ghi chép nhưng qua cách kể của ông, tính cách nhân vật cũng được thể hiện rõ ràng (như bài Hành trạng của cha, mẹ đích, mẹ sinhThứ tẩu phu nhân lỗi từ). Điều đó cho phép chúng ta tin lời ghi của Ngô gia thế phả. Với bảy hồi này, Ngô Thì Du đã nối tiếp được mạch văn Ngô Thì Chí, tạo nên những giá trị nghệ thuật kiệt xuất cho Hoàng Lê nhất thống chí, một đỉnh cao của thể loại truyện chương hồi viết bằng chữ Hán của văn học Việt Nam. Tác phẩm của Ngô Thì Du còn lại không nhiều nhưng ông cũng là một tác giả có những đóng góp đặc sắc riêng cho Ngô gia văn phái./.

Theo Danh nhân Thăng Long - Hà Nội

Bài liên quan
  • Trần Quang Khải – thượng tướng, nhà thơ
    Trần Quang Khải là con trai thứ ba Trần Thái Tông, sinh năm 1240, mất năm 1294. Dưới triều Trần Thánh Tông (1258-1278), Trần Quang Khải được phong tước Chiêu Minh đại vương. Năm 1274, ông được giao chức Tướng quốc thái úy.
(0) Bình luận
  • Giang Văn Minh và những giai thoại rạng danh xứ Đoài
    Nằm dưới chân núi Tổ, vùng đất cổ Đường Lâm, xứ Đoài không chỉ nổi tiếng là nơi sinh ra vua Phùng Hưng (cuối thế kỷ thứ VIII) và vua Ngô Quyền (thế kỷ thứ X) mà còn được biết đến là quê hương của Thám hoa Giang Văn Minh - một nhân vật lỗi lạc trong lịch sử ngoại giao của nước nhà, hồi cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII.
  • Tiếp thêm sức sống cho nghề truyền thống Thủ đô
    Là địa phương đứng đầu cả nước về số lượng các làng nghề truyền thống, các nghệ nhân và người làm nghề truyền thống Hà Nội đang không ngừng sáng tạo trong công tác gìn giữ, bảo tồn các làng nghề. Sự sáng tạo không chỉ mang lại một diện mạo mới, một sức sống mới cho các làng nghề mà còn gợi mở những không gian trải nghiệm văn hóa mới cho người dân Thủ đô và du khách.
  • Khởi công xây dựng đền thờ Đức vua Ngô Quyền
    Sáng 26/6, Tổng Bí thư Tô Lâm dự Lễ khởi công dự án xây dựng đền thờ Đức vua Ngô Quyền tại Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Cổ Loa (xã Cổ Loa, huyện Đông Anh).
  • Trưng bày “Báo chí Huế trong dòng chảy Báo chí Cách mạng Việt Nam”
    Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, Hội Nhà báo Thành phố Huế phối hợp Ban Tuyên giáo và Dân vận Thành uỷ, Sở Văn hoá Thể thao tổ chức Triển lãm trưng bày “Báo chí Huế trong dòng chảy Báo chí cách mạng Việt Nam”.
  • Hà Nội: Thêm 9 di tích được xếp hạng cấp thành phố
    Ngày 10/6, UBND Thành phố Hà Nội ban hành Quyết định số 2859/QĐ-UBND về việc xếp hạng di tích lịch sử-văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
  • Công nhận hội Lim ở Bắc Ninh là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
    Hội Lim là nơi các giá trị lịch sử, tín ngưỡng và đặc biệt là Dân ca Quan họ Bắc Ninh được thực hành, bảo tồn và lan tỏa, thể hiện tính gắn kết bền chặt và tinh tế giữa các làng Quan họ.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
  • UNESCO trao Bằng công nhận Công viên địa chất toàn cầu Lạng Sơn
    Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Lạng Sơn là minh chứng rõ nét cho nỗ lực gìn giữ và quảng bá di sản văn hóa Việt Nam cùng với các di sản văn hóa phi vật thể như tín ngưỡng thờ Mẫu, hát Then của người Tày, Nùng, Thái...
  • 9 tựa sách hay trong Tủ sách gia đình của Nhã Nam
    Ngày Gia đình Việt Nam 28/6 là dịp để mỗi người lắng lại, cảm nhận rõ hơn giá trị của tình thân, của những khoảnh khắc bên nhau giản dị mà quý giá. Trong nhịp sống hiện đại, một trong những cách đẹp đẽ để giữ gìn và bồi đắp sợi dây gắn kết gia đình chính là cùng nhau đọc sách – những cuốn sách đầy yêu thương, sẻ chia và thấu cảm. Hiểu được điều đó, Nhã Nam đã kỳ công tuyển chọn và xây dựng Tủ sách Gia đình. Đây là những cuốn sách giúp nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ, lan tỏa giá trị yêu thương trong mỗi mái ấm, để mỗi em bé đều được lớn lên trong vòng tay chan chứa hạnh phúc của gia đình.
  • Phu nhân Tổng Bí thư và Tổng Giám đốc UNESCO tham dự triển lãm ảnh "Chúng tôi có thể"
    Các tác phẩm là sản phẩm tiêu biểu của dự án “Chúng tôi CÓ THỂ” – sáng kiến phối hợp giữa UNESCO và Bộ Giáo dục và Đào tạo, hướng đến mục tiêu trao quyền học tập và phát triển toàn diện cho phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số tại các vùng khó khăn.
  • Người đẹp Phú Yên Hà Trúc Linh đăng quang Hoa hậu Việt Nam 2024
    Hà Trúc Linh - 21 tuổi, quê Phú Yên, sinh viên Đại học Tài chính Marketing TP HCM - vượt top 24 để đoạt vương miện Hoa hậu Việt Nam 2024.
  • Ra mắt sách “Phụ nữ bàn về vấn đề phụ nữ trên Phụ nữ tân văn"
    Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam vừa ra mắt cuốn sách "Phụ nữ bàn về vấn đề phụ nữ trên Phụ nữ tân văn", tuyển chọn các bài viết tiêu biểu của nữ trí thức trên tuần báo Phụ nữ tân văn – một diễn đàn quan trọng trong phong trào nữ quyền Việt Nam đầu thế kỷ XX. Ấn phẩm dày 600 trang, do Đoàn Ánh Dương biên soạn và giới thiệu, được phát hành trên toàn quốc từ tháng 6/2025.
  • Hà Nội nêu cao tinh thần “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”
    Tại kỳ họp thứ 24 (kỳ họp chuyên đề) diễn ra sáng 27/6, HĐND Thành phố Hà Nội khóa XVI, nhiệm kỳ 2021-2026 đã thông qua Nghị quyết về phân cấp quản lý nhà nước một số lĩnh vực kinh tế - xã hội trên địa bàn Thành phố, bảo đảm thực hiện đúng phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”.
  • Phát động cuộc thi ảnh báo chí 'Việt Nam trên hành trình đổi mới’
    Cuộc thi ảnh báo chí “Việt Nam trên hành trình đổi mới” do Báo Nhân Dân phối hợp Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam tổ chức nhằm tuyên truyền, quảng bá hình ảnh đất nước, con người, những thành tựu về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa cũng như vị thế của Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế trong quá trình 40 năm đổi mới.
  • Hà Nội sửa đổi, bổ sung quy định phân cấp nguồn thu, chi để mô hình chính quyền địa phương 2 cấp hoạt động hiệu quả
    Để có cơ sở điều chỉnh, giao dự toán ngân sách năm 2025 cho các xã, phường sau sắp xếp đảm bảo nguồn ngân sách để thực hiện các nhiệm vụ được giao từ ngày 1/7/2025, HĐND Thành phố Hà Nội ngày 27/6 đã thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số nội dung quy định tại Nghị quyết số 22/2022/NQ-HĐND ngày 08/12/2022 về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách, định mức phân bổ ngân sách Thành phố và tỷ lệ phần trăm phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách giai đoạn 2023-2025.
  • Trình chiếu loạt phim đỉnh cao của Hàn Quốc tại Liên hoan phim châu Á Đà Nẵng lần 3
    Liên hoan phim châu Á Đà Nẵng lần 3 diễn ra từ ngày 29/6 – 5/7 sẽ có nhiều hoạt động hấp dẫn, đặc biệt khán giả sẽ có cơ hội gặp gỡ nhiều diễn viên Hàn Quốc.
  • Festival Nông sản Hà Nội: Thúc đẩy mô hình canh tác, chế biến và tiêu dùng nông sản gắn với văn hóa – du lịch
    Từ ngày 26 - 29/6/2025, tại quận Tây Hồ, Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội phối hợp UBND quận Tây Hồ tổ chức Festival Nông sản Hà Nội lần thứ 4 – sự kiện xúc tiến thương mại nông nghiệp thường niên đang ngày càng khẳng định vị thế là điểm hẹn lớn của người tiêu dùng và các nhà sản xuất nông sản trên cả nước.
Ngô Thì Du – người tiếp nối ngòi bút văn xuôi Ngô Thì Chí
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO