Nguyễn Hiền – trạng nguyên thần đồng
Nguyễn Hiền sinh ngày 12 tháng 7 năm Ất Mùi (1235), quê ở làng Vương Miện, huyện Thượng Hiền (sau đổi là Thượng Nguyên, phủ Thiên Trường, lộ Sơn Nam), nay là thôn Dương A, xã Nam Thắng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Nguyễn Hiền nổi tiếng là người thông minh từ nhỏ. Đỗ Trạng nguyên khoa thi Thái học sinh năm Đinh Mùi, đời Trần Thái Tông, niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình thứ 16 (1247), khi mới 12 tuổi. Khoa thi này có ba người đỗ cao: Nguyễn Hiền, Trạng nguyên 12 tuổi; Lê Văn Hưu, Bảng nhãn 18 tuổi; Đặng Ma La, Thám hoa 14 tuổi.
Nguyễn Hiền là Trạng nguyên nhỏ tuổi nhất trong nền khoa bảng Việt Nam. Ông mồ côi cha từ nhỏ, bà mẹ đã cho ông theo học sư cụ chùa Hà Dương ở làng Dương A. Tương truyền, lúc đầu vào học sư mới viết được 10 trang giấy, Hiền liền đọc ngay được như người đã từng đi học rồi, sư cụ lấy làm lạ. Một đêm, sư cụ nằm mộng thấy Phật quở rằng: “Trạng nguyên mỗi lần vào chùa thường nghịch ngợm, sao nhà người không răn đe, ngăn chặn?”. Sư tỉnh dậy, đốt đuốc tìm khắp chùa thấy sau lưng các pho tượng đều có khắc chữ “phạt 30 roi”, riêng hai pho hộ pháp ghi “phạt 60 roi”, sư nhận ra ngay chữ của Hiền. Một hôm, sư lên lớp bèn lấy một câu trong sách Luận ngữ: Kính qui thần nhi viễn chi (Kính quỷ thần mà phải lánh xa) mà dặn Hiền rằng: “Phật tức quỷ thần, trò không được nhạo báng”. Hiền liền nhận lỗi và tự lau sạch những chữ mình đã viết. Từ đó, Hiền càng chăm chỉ học tập, học đến đâu nhớ đến đấy, xuất khẩu thành chương.
Năm 11 tuổi, Hiền đã nổi tiếng và được mệnh danh là “thần đồng”. Bấy giờ có người họ Đặng tự cho mình là đã đọc biết hết các sách, nghe tiếng tăm Hiền liền tìm đến nhà Hiền thử tài, ra đầu đề bài phú:
“Phượng hoàng sào a, kỳ lân du úc”
và ra hạn cho Hiền số câu, mỗi câu phải có tiếng chỉ một loài cầm thú. Hiền liền ứng khẩu:
Phi long kiến chiểu,
Mã bất xuất hà.
Ý bị Hữu Hùng chi thế,
Ấp vu Trác Lộc chi a.
(Rồng không bay lên nơi ao hồ,
Ngựa không từ sông phi ra.
Đẹp thay đời có họ Hữu Hùng,
Làm nhà ở nơi Trác Lộc)
Người họ Đặng hết sức thán phục Hiền và tấm tắc khen là “Thiên tài”. Đến năm thi Đinh Mùi (1247), Nguyễn Hiền dự kỳ thi đình với bài phú Áp tử từ kê mẫu du hồ phú (Bài phú vịt con từ giã mẹ gà đi chơi hồ nước). Vua hỏi, Hiền trả lời trôi chảy cả văn lẫn ý, vua khen ngợi và hỏi:
- Học thầy nào?
Nguyễn Hiền trả lời:
- Thần không phải là người sinh ra đã biết, nhưng khi có một đôi chữ không biết thì hỏi thầy chùa.
Vua lại nói:
- Vì còn nhỏ mà Trạng nguyên ăn nói chưa biết lễ, cần cho về nhà học lễ ba năm mới bổ dụng.
Vì thế Trạng Hiền chưa được ban áo mão.
Nguyễn Hiền trở về quê nuôi dưỡng mẹ, ngày ngày đọc sách. Hiền vẫn rất ham chơi, thường lúc rỗi rãi vẫn cùng trẻ làng chơi khăng, thả diều...
Một lần, triều đình tiếp sứ Trung Hoa, viên sứ đưa ra một con ốc xoắn nhờ xâu qua ruột nó bằng một sợi chỉ mảnh. Được như vậy y mới chịu vào thành. Ấy là viên sứ muốn thử tài người Nam ra sao. Vua truyền cho các quan tìm cách xâu thử, nhưng vị nào cũng lè lưỡi, lắc đầu. Bấy giờ vua chợt nghĩ đến Trạng nguyên trẻ Nguyễn Hiền, bèn cho triệu Trạng về kinh.
Viên quan được giao việc đến quê gặp Trạng, gặp ngay một lũ trẻ chăn trâu nghịch đất đầu làng, thấy trong đó có một cậu bé mặt mũi khôi ngô đang bày cho lũ bạn đắp một con voi bằng đất mà bốn chân lẫn tai, vòi... có thể ngoe nguẩy được. Sứ giả đồ chừng đó là trạng Hiền, bèn buông một câu thăm dò:
- Tự là chữ, cất giằng đầu, chữ tử là con, con ai con ấy?
Cậu bé nghe được, không ngước mặt lên, cũng thủng thẳng buông một câu:
Vu là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh là đứa, đứa nào đứa này!
Chủ ý của viên quan xuất một vế đối theo lối chiết tự chữ Hán. Chữ tự có hai bộ phận, trên như cái giằng xay, dưới là chữ tử. Để nguyên tự có nghĩa là chữ, bỏ giằng trên còn lại chữ tử nghĩa là con và gắn luôn với vế đối nôm tiếp đó thành một câu hỏi nửa chữ nửa nôm. Câu hỏi cũng có sắc thái của người trên hỏi kẻ dưới. Trạng Hiền cũng đối lại bằng cách chiết tự kết hợp với một phần nôm: chữ vu là chung có hai nét ngang và một nét móc, bỏ nét ngang ở dưới thành chữ đinh, nghĩa là đứa, đi với đứa nào đứa này là một vế đối rất chỉnh và rất xược.
Sứ biết đó chính là trạng Hiền, bèn xuống ngựa, truyền lại ý vua mời trạng về kinh.
Nhưng Trạng Hiền không chịu, viện lẽ rằng, trước vua cho Trạng kém lễ, buộc phải về, nhưng lần này vua cho mời Trạng lên cũng không giữ đúng lễ. Viên quan không biết làm thế nào, phải trần tình đầu đuôi câu chuyện sứ giả nước ngoài đưa câu đố mà chưa ai giải được. Trạng Hiền nghe chỉ mỉm cười, trở lại với đám trẻ chăn trâu. Chờ khi viên quan lên ngựa, Hiền mới xui đám trẻ cùng hát:
Tích tịch tình tang!
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng.
Bên thì lấy giấy mà bưng,
Bên thì bôi mỡ kiến mừng kiến sang.
Tích tịch tình tang!...
Viên quan nghe nhẩm thuộc lời ấy, biết Trạng đã chỉ cách giải, vui vẻ trở về kinh.
Tương truyền sứ thần Trung Hoa đem một bài thơ ngụ ngôn sang thử nhân tài nước Nam. Bài thơ như sau:
Lưỡng nhật bình đầu nhật,
Tứ sơn điên đảo sơn.
Lưỡng vương tranh nhất quốc,
Tử khẩu tung hoành gian.
(Hai mặt trời bằng đầu,
Bốn trái núi điên đảo.
Hai vua tranh nhau một nước,
Bốn miệng ở trong khoảng dọc ngang)
Vua và các quan trong triều không ai giải nghĩa được là gì. Một viên quan tâu với vua xin mời Trạng nguyên Nguyễn Hiền (mà vua cho là bé đang ở nhà để rèn luyện thêm) đến để hỏi nghĩa.
Các quan đến quê mời gặp lúc Nguyễn Hiền đang nô đùa với chúng bạn. Nguyễn Hiền nói với các quan:
- Trước đây vua nói ta chưa biết lễ, thì nay chính vua cũng không biết lễ. Không ai đi mời Trạng nguyên về kinh lại không có lễ nghĩa.
Quan về tâu lại với vua, rồi đem đồ lễ và xe ngựa đến đón, Nguyễn Hiền mới chịu về kinh.
Về đến kinh đô, vua đưa bài thơ của sứ Tàu ra, Trạng Hiền liền giải thích như sau:
Câu thứ nhất Lưỡng nhật bình đầu nhật, nghĩa là hai chữ “nhật” đều bằng đầu nhau. Câu thứ hai Tứ sơn điên đảo sơn là bốn chữ “sơn”, ngược xuôi cũng đều là chữ “sơn” cả. Câu thứ ba Lưỡng vương tranh nhất quốc, nghĩa là chữ “vương” hai vua tranh một nước. Câu thứ tư Tứ khẩu tung hoành gian, có nghĩa là bốn chữ “khẩu” ngang dọc cũng đều thành chữ “khẩu” cả. Tóm lại tất cả bốn câu thơ chỉ nói đến một chữ “Điền”.
Giải xong, trạng Hiền viết thư đưa cho sứ Trung Hoa, ông tả phải chịu là nước Nam có nhân tài.
Nguyễn Hiền vào triều. Vua tuyển ông vào học tiếp Tam giáo chủ khoa, tức đạo Lão, đạo Phật, đạo Khổng và bổ nhiệm làm quan đến chức Thượng thư Bộ Công.
Những năm làm quan trong triều, Nguyễn Hiền có nhiều kế sách hay để phò vua giúp nước. Năm Ất Hợi, nước ta lại bị giặc Chiêm Thành xâm lược, nhà vua rất lo bèn giao cho Trạng nguyên Nguyễn Hiền đánh giặc giữ nước. Chỉ ít lâu sau, quân giặc thất bại, Trạng Hiền thu quân về Vũ Minh Sơn mở tiệc khao quân và tâu lên vua. Nhà vua vô cùng vui mừng và phong cho ông Trạng chức Đệ nhất hiển quý quan...
Về nông nghiệp, ông cho đắp đê quai vạc sông Hồng, phát triển sản xuất, mùa màng bội thu. Về quân sự, ông cho mở mang võ đường để rèn quân luyện sĩ.
Ngày 14 tháng 8 năm Bính Tý (1256), Trạng nguyên Nguyễn Hiền lâm bệnh nặng và qua đời, thọ 21 tuổi. Nhà vua thương tiếc truy phong ông là Đại vương thành hoàng và tôn làm thần ở 32 nơi, trong đó có đình Lại Đà ở xã Đông Hội, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội.
Hiện nay, tại đền thờ Trạng nguyên Nguyễn Hiền ở quê hương ông, thôn Dương A (Nam Thắng, Nam Trực, Nam Định) còn giữ được nhiều bài vị, sắc phong, câu đối, đại tự, đặc biệt bảo tồn được cuốn Ngọc phả nói về sự nghiệp của ông, trong đó có câu ca ngợi tài năng của Nguyễn Hiền như sau:
Thập nhị tuế khôi khai lưỡng quốc,
Vạn niên thiên tuế lập tam tài.
(Mười hai tuổi khai khoa hai nước,
Nghìn năm ghi mãi chữ tam tài)...
Theo Danh nhân Thăng Long - Hà Nội