Giang Văn Minh và những giai thoại rạng danh xứ Đoài
Nằm dưới chân núi Tổ, vùng đất cổ Đường Lâm, xứ Đoài không chỉ nổi tiếng là nơi sinh ra vua Phùng Hưng (cuối thế kỷ thứ VIII) và vua Ngô Quyền (thế kỷ thứ X) mà còn được biết đến là quê hương của Thám hoa Giang Văn Minh - một nhân vật lỗi lạc trong lịch sử ngoại giao của nước nhà, hồi cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII.
Thám hoa Giang Văn Minh tự Quốc Hoa, hiệu Văn Chung tiên sinh, sinh ngày mùng 6 tháng 9 năm Quý Dậu (1573) tại làng Mông Phụ, nay là xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây (Hà Nội). Ông mất ngày mùng 2 tháng 6 năm Mậu Dần (1638) tại Yên Kinh (Bắc Kinh) - kinh đô của nhà Minh trong chuyến đi sứ Trung Hoa.

Người vùng Đường Lâm kể rằng, thuở nhỏ, Giang Văn Minh nổi tiếng là người thông minh, học giỏi. Sử sách còn lưu, ông từng đỗ đầu kỳ thi Hội, rồi đến năm Vĩnh Tộ thứ 10, tức năm Mậu Thìn (1628), Giang Văn Minh tham dự thi Đình, đỗ Đình nguyên Thám hoa (đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ tam danh). Do khoa thi này không có ai đỗ Trạng nguyên hay Bảng nhãn nên ông là người đỗ cao nhất.
Sau khi đăng khoa, ông được triều đình tấn phong nhiều chức vụ như: Binh khoa đô cấp sự trung, Thái bộc Tự khanh, Tả phủ Tây quốc công và được chúa Trịnh Tráng cử đi trấn thủ ở Nghệ An. Đặc biệt, ngày 30 tháng 12 năm Đinh Sửu (1637), tức năm Dương Hòa thứ 3, vua Lê Thần Tông đã cử Thám hoa Giang Văn Minh và Thiêm đô Ngự sử Nguyễn Duy Hiểu làm chánh sứ cùng với bốn phó sứ: Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình, Thân Khuê dẫn đầu hai đoàn sứ bộ sang Yên Kinh để cầu phong và tuế cống nhà Minh.
Trong chuyến đi sứ này, Giang Văn Minh đã thể hiện tài năng đối đáp hoạt bát, lanh lợi, khí phách kiên cường và niềm tự hào dân tộc. Ông đã bất chấp sự an nguy của tính mạng để bảo vệ, giữ gìn bộ mặt quốc thể, đồng thời cũng để lại cho vua quan thiên triều phương Bắc một bài học bẽ bàng về sự ngạo mạn, hống hách. Chính lập trường cứng cỏi ấy khiến ông bị sát hại, song cái chết lẫm liệt của ông đã trở thành biểu tượng của bản lĩnh và tinh thần Việt Nam trước mọi sự áp đặt, ngạo mạn từ ngoại bang.
Cuộc đời tài trí và sự hy sinh lẫm liệt của Thám hoa Giang Văn Minh được người đời truyền tụng thành những giai thoại và được con cháu ghi lại trong “Ngọc phả Giang Thám hoa”. Trong đó đặc biệt cảm động là hai chuyện: xin bỏ lệ cống người bằng vàng để trả nợ Liễu Thăng và cái chết lẫm liệt của Thám hoa khi ứng đối với vua Minh.
Chuyện thứ nhất kể về việc Giang Văn Minh xin được bỏ lệ cống trả nợ Liễu Thăng như sau: Vào ngày khánh thọ Sùng Trinh Đế, tức Minh Tư Tông, vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Minh, khi sứ thần các nước có mặt ở Yên Kinh tất bật chuẩn bị lễ vật để triều kiến thì sứ thần An Nam lại nằm khóc thảm thiết. Thấy lạ, vua Minh bèn gọi và hỏi nguyên cớ. Ngay lập tức Giang Văn Minh nức nở thưa: Theo lệnh vua Lê, thần được sang quý quốc triều cống. Thần đã lưu lạc cả năm ở đây nhưng vẫn chưa làm tròn trọng trách. Nay đến ngày giỗ Tằng tổ của thần mà thần vẫn chưa được về quê để đèn hương tưởng niệm. Như vậy chẳng phải đắc tội với tiên tổ hay sao? Thần còn lòng dạ nào mà vui cho được? Nói rồi Giang Văn Minh lại ôm mặt khóc.
Nghe lời tâu của sứ thần An Nam như thế Sùng Trinh Đế cả cười và nói: Ta tưởng chuyện gì hệ trọng chứ giỗ Tằng tổ thì việc gì phải khóc. Nếu giỗ cha, giỗ mẹ thì còn hợp lẽ, chứ tổ tiên đã nhiều đời khuất bóng thì cũng có thể miễn nghị, đâu phải lo mang tiếng bất hiếu. Nói vậy nhưng vua Minh vẫn xúc động: Tuy vậy cũng đáng khen cho nhà ngươi biết giữ hiếu kính với tổ tiên.
Không để mất cơ hội, Giang Văn Minh vội lau nước mắt, ngẩng đầu đáp: Muôn tâu, lời dạy của Thánh hoàng thật rất đúng. Thần cũng nghĩ vậy nhưng người đời đâu có nghĩ thế. Nhiều chuyện xa xôi mà vẫn chưa được “miễn nghị”. Như việc thiên triều bắt dân nước Nam phải cõng người vàng để trả nợ Liễu Thăng - một tướng đã tử trận cách đây hơn hai trăm năm chẳng phải là vô lý sao? Mãi đến bây giờ nước thần cũng chưa “miễn nghị”.
Ông kính cẩn tiếp lời: Nay được lời Thánh hoàng ban dạy như thế, thần thấy rất phải. Thần xin gác lại việc giỗ Tằng tổ để cùng vui khánh tiết. Cúi xin Thánh hoàng từ đây “miễn nghị” cho nước thần cái nợ Liễu Thăng để tình giao hảo hai nước khỏi bị những chuyện xa xôi kia làm vướng bận.

Trước những lời lẽ hợp lý và hợp tình ấy, vua Minh ngớ người ra và cuối cùng đành đồng ý cho bãi bỏ lệ cống người bằng vàng, chấm dứt việc trả nợ Liễu Thăng cho nước Nam ta.
Chuyện thứ hai kể về cái chết lẫm liệt của vị Thám hoa: Sau lần bị Giang Văn Minh cao tay xin bỏ lệ cống người Sùng Trinh Đế tuy ngoài mặt vui vẻ nhưng trong bụng vẫn ấm ức và luôn tìm cách để hạ nhục uy thế sứ thần nước Nam. Một lần khác, vào dịp tiết Thanh minh trong khi sứ thần các nước dạo chơi ngoại thành thì Giang Văn Minh lại nằm phơi bụng dưới nắng tại dịch xá. Thấy lạ, vua Minh hỏi nguyên do. Giang Văn Minh điềm tĩnh tâu: Muôn tâu Thánh đế! Từ nhỏ thần ham đọc sách thánh hiền, xem đâu nhớ đó nên bao nhiêu bồ chữ trong thiên hạ, thần đều thu về để trong bụng. Từ ngày sang quý quốc, khí hậu ẩm thấp, thần sợ chữ sách thánh hiền lâu ngày sẽ bị mốc nên nhân ngày nắng ấm, thần vạch áo đem phơi cho khỏi mốc chữ thôi.
Câu nói nửa đùa, nửa mỉa mai khiến triều đình nhà Minh không khỏi tức giận. Vốn đã mang mối hận thua thiệt trong các cuộc chinh phạt, lại từng bị Giang Văn Minh “qua mặt”, lần này Sùng Trinh Đế bày mưu trả đũa. Vua đích thân ra một vế đối mang hàm ý sỉ nhục. Vế đối được đưa ra là: “Ðồng trụ chí kim đài dĩ lục” (Cột đồng đến nay rêu đã xanh). Vế đối này có hàm ý miệt thị, bêu xấu nước ta bằng việc nhắc chuyện Mã Viện nhà Đông Hán từng đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó cho chôn một chiếc cột đồng với lời nguyền: Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt (Cột đồng gãy thì Giao Chỉ bị diệt vong). Nghe xong vế đối do vua Minh đọc, Giang Văn Minh rất căm giận bởi sự xúc phạm quốc thể của Sùng Trinh Đế.
Không cần nghĩ lâu, ông liền dõng dạc và kiêu hãnh đọc luôn vế đáp: “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” (Sông Bạch Đằng từ xưa máu còn đỏ). Đúng là một vế đối xuất thần, rất hoàn chỉnh, đanh thép và đầy ẩn ý. Giang Văn Minh cũng nhắc lại chuyện Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán (938), Lê Hoàn đánh tan quân Tống (981), Trần Hưng Đạo đánh tan quân Nguyên Mông (1288) trên sông Bạch Đằng để cho thiên triều thấy được khí phách của người nước Nam và số phận bi thảm của quân xâm lược phương Bắc nhằm cảnh cáo thái độ xấc láo trong phong cách đối ngoại của nhà Minh.
Vế đối “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” của Thám hoa Giang Văn Minh như một cái tát giữa mặt Sùng Trinh Đế, khiến triều đình nhà Minh sửng sốt và tức tối vì bị sứ thần An Nam gợi lại nỗi nhục lịch sử. Trong cơn thịnh nộ, vua Minh hạ lệnh xử tử Giang Văn Minh một cách tàn độc. Cuộc hành quyết diễn ra ngày mùng 2 tháng 6 năm Dương Hòa thứ tư (1638), tức là năm Sùng Trinh thứ 11 triều Minh.
Sau cái chết oanh liệt tại Yên Kinh, thi hài Thám hoa Giang Văn Minh được đưa về nước sau gần 6 tháng, đoàn phái bộ phải vượt đường trường gian nan. Linh cữu ông được quàn tại quán Đồng Dưa (nay được gọi là quán Giang). Ngày an táng ông, đích thân vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng đã đến dự lễ. Đứng trước linh cữu của vị sứ thần không chịu khuất phục trước uy vũ của thiên triều phương Bắc để bảo vệ danh dự của quốc gia; vua Lê Thần Tông than rằng: “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng” (Đi sứ không trái mệnh vua, không để nhục nước, xứng đáng là anh hùng thiên cổ) và truy tặng ông tước hiệu Công bộ Tả thị lang - tước Vinh Quận công. Trong lời văn truy điệu Thám hoa của triều đình có đoạn viết: “Thục bất hữu sinh/ Sinh như công gia/ Sinh ư khoa giáp/ Kỳ sinh gia vinh/ Thục bất hữu tử/ Tử như công gia/ Tử ư quốc sự/ Kỳ tử do sinh” (Ai chẳng có sống/ Sống mà như ông/ Sống nơi khoa giáp/ Sống là hiển vinh/ Ai chẳng có chết/ Chết mà như ông/ Chết vì việc nước/ Mất cũng như còn).
Mộ phần Mộ phần Thám hoa nay vẫn còn tại Ðồng Dưa, thuộc xứ Gò Ðông, làng Mông Phụ (Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội) được chăm sóc và gìn giữ như một di tích thiêng liêng của đất tổ Đoài xưa.
Ghi nhớ công lao và khí phách của Giang Văn Minh, vị “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng” ấy, quê hương Đường Lâm vẫn gìn giữ nguyên vẹn ngôi từ đường của ông. Từ đường được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia năm 1991, có kiến trúc chữ nhị với tiền đường, hậu đường đơn giản mà trang nghiêm.
Trong hậu đường đặt tượng thờ, lư hương, đỉnh đồng và nhiều hiện vật quý như bia đá, hoành phi, câu đối ca ngợi công trạng ông. Nổi bật là đôi câu đối: “Trăm năm lễ nghĩa làng Mông Phụ - Nghìn thuở thanh danh cửa Thám hoa”. Hằng năm, vào ngày mùng 2 tháng 6 - ngày mất của ông, nhân dân Đường Lâm cùng họ tộc và chính quyền địa phương tổ chức lễ tưởng niệm long trọng. Tên ông cũng được đặt cho nhiều tuyến đường tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Bắc Ninh… như một cách tri ân bậc sứ thần kiêu hùng trong lịch sử ngoại giao Việt Nam. Có thể nói, cuộc đời và sự nghiệp của Thám hoa Giang Văn Minh thật lẫy lừng. Ông đúng là “mất cũng như còn”, xứng danh là một kẻ sĩ làm rạng danh xứ Đoài - Thăng Long Hà Nội./.