Văn hóa – Di sản

Lê Văn Hưu – nhà sử học khơi nguồn Quốc sử

Nguyễn Minh Tường - Nguyễn Hữu Sơn 30/10/2023 15:52

Lê Văn Hưu (1230 - 1322), người làng Phủ Lý, huyện Đông Sơn, nay là thôn Phủ Lý Trung, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1964, trên Nghiên cứu Lịch sử, hai tác giả Nguyễn Kha và Trần Huy Bá cho công bố bài: Phát hiện những tài liệu liên quan đến sử gia Lê Văn Hưu (số 62, tháng 5-1964). Qua đó, cho chúng ta biết đã phát hiện được gia phả và mộ của Lê Văn Hưu.

Cuốn gia phả mang tên Lê thị gia phả (Gia phả họ Lê), do bà Lê Thị Huệ lưu giữ. Lê thị gia phả gồm 3 quyển, không ghi tên người soạn, chép từ đời khởi thủy của dòng họ Lê là Trấn Quốc Bộc xạ Lê Lương, thời Đinh Tiên Hoàng, cho đến các đời gần đây, cả thảy hơn 20 đời. Lê Văn Hưu thuộc đời thứ 7. Lê thị gia phả chép về ông như sau: “Thế tổ đời thứ 7 đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, Đệ nhị danh triều Trần, trải làm quan đến chức Hàn Lâm viện Thị độc, Binh Bộ Thượng thư, kiêm Chưởng sử, tước Nhân Uyên hầu, hiệu Tu Hiền, soạn Đại Việt sử ký”.

le-van-huu.jpg
Tượng Lê Văn Hưu.

Sách Các nhà khoa bảng Việt Nam (1993) cho biết về khoa thi mà Lê Văn Hưu đỗ: “Lê Văn Hưu, người làng Phủ Lý, huyện Đông Sơn... 18 tuổi đỗ Bảng nhãn khoa thi Thái học sinh năm Đinh Mùi, niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình thứ 16 (1247) đời Trần Thái Tông”.

Sau khi thi đỗ, Lê Văn Hưu được giữ chức Kiểm Pháp quan (chức quan trông coi việc hình luật), rồi Binh Bộ Thượng thư, sung chức Hàn Lâm viện học sĩ, kiêm Quốc sử viện Giám tu. Ông cũng là thầy học của Thượng tướng Trần Quang Khải, một trong những danh tướng của hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1288).

Trong thời gian giữ chức Quốc sử viện Giám tu, ông đã hoàn thành việc biên soạn Đại Việt sử ký - bộ quốc sử đầu tiên của nước ta. Đại Việt sử ký toàn thư chép về bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu như sau: “Nhâm Thân - Thiệu Long năm thứ 15 (1272). Mùa xuân, tháng giêng, Hàn Lâm viện Học sĩ kiêm Quốc tử viện Giám tu Lê Văn Hưu. vâng sắc chỉ soạn xong bộ Đại Việt sử ký, từ Triệu Vũ đế đến Lý Chiêu Hoàng, gồm 30 quyển, dâng lên. Vua xuống chiếu khen ngợi”. Như vậy, trong thời gian giữ chức Giám tu phụ trách Quốc sử viện, Lê Văn Hưu đã biên soạn Đại Việt sử ký. Bộ sử gồm 30 quyển, chép từ Triệu Vũ đế (207 - 136 tr. CN) đến Lý Chiêu Hoàng (1224-1225), hoàn thành và dâng lên vua Trần Thánh Tông năm 1272. Trong lịch sử phát triển của nền sử học Việt Nam, Đại Việt sử ký giữ vị trí bộ sử bề thế đầu tiên.

Năm Hồng Đức thứ 10 (1479) đời Lê Thánh Tông, khi biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư, sử gia Ngô Sĩ Liên đã “lấy hai bộ sách tiên hiền ra, hiệu chính biên soạn lại”. Hai bộ sách của “tiên hiền” là hai bộ sử cùng mang tên Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên. Cho đến lúc đó, bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu vẫn còn. Nhưng rồi sau đó, chưa biết rõ vào thời điểm nào, bộ quốc sử đầu tiên của chúng ta bị mất và thất truyền. Ngày nay, Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu không còn nữa, nhưng nội dung của nó đã được thâu nhập vào Đại Việt sử ký toàn thư qua sự sửa chữa, bổ sung của các sử thần triều Lê, từ Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh đến Phạm Công Trứ, Lê Hy. Trong bản in năm Chính Hòa thứ 18 (1697), nó là cơ sở của phần Ngoại kỷ từ quyển 2 đến quyển 5 và phần Bản kỷ, từ quyển 1 đến quyển 4, bao gồm thời gian lịch sử từ kỷ họ Triệu đến hết kỷ nhà Lý (năm 207 tr. CN đến năm 1225). Đây là cống hiến của sử gia Lễ Văn Hưu đối với quá trình biên soạn Đại Việt sử ký toàn thư.

Hiện nay chúng ta không thể phân biệt được trong Đại Việt sử ký toàn thư, những bộ phận trong Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu được giữ nguyên vẹn hay đã bị sửa chữa. Chỉ có những đoạn trích dẫn dưới đề mục “Lê Văn Hưu viết” là chắc chắn của Lê Văn Hưu. Trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư, hiện còn lại 30 đoạn trích dẫn như vậy, được phân bố như sau: Ngoại ký: 11 đoạn, Bản ký: 19 đoạn. Có thể coi những đoạn trích dẫn đó là những mảnh vỡ nhưng gần nguyên tác nhất trong Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu, còn được giữ lại trong Đại Việt sử ký toàn thư. Trên cơ sở 30 đoạn dưới đề mục “Lê Văn Hưu viết”, đó là nguồn tư liệu đáng tin cậy để chúng ta tìm hiểu quan điểm sử học và phương pháp viết sử của Lê Văn Hưu.

Lê Văn Hưu sống và hoạt động trong một giai đoạn mà những vấn đề mất còn của đất nước đặt ra rất gay gắt, cho nên ông luôn tỏ ra nhạy cảm với những công lao, gian khổ của cha ông trong quá khứ. Bao thế hệ sống trên mảnh đất thiêng liêng này không ngừng phải nổi dậy, phải chống trả lại bọn phong kiến phương Bắc để giành lại non sông gấm vóc. Ông nhiệt liệt ca ngợi hành động oanh liệt của Hai Bà Trưng (? - 43): “Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta, đủ dựng được nghiệp bá vương”. Ông cũng ca ngợi Ngô Quyền (899-944), lần đầu tiên khai sáng nền tự chủ cho dân tộc: “Tiền Ngô vương có thể lấy quân mới họp của nước Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Thao, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một lần nổi dậy mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy”... Chiến thắng vang dội trên sông Bạch Đằng khiến cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Ngay sau đó Ngô Quyền chính thức bãi bỏ chức Tiết độ sứ và xưng vương, định đô ở Cổ Loa, đặt các chức quan văn võ, qui định nghi lễ trong triều. Trước sự thật lịch sử, Lê Văn Hưu không chỉ đề cao tài cầm quân của Ngô Quyền “một cơn giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy”, mà còn đặc biệt khẳng định vai trò người “mở nước xưng vương”, “Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi hoàng đế và đổi niên hiệu, mà chính thống của nước Việt ta gần như nối lại được”... Đó thật sự là những lập luận chặt chẽ, hiểu đúng tình thế lịch sử và ghi nhận đúng mức những đóng góp của danh nhân. Bởi lẽ, Ngô Quyền dù yêu nước Việt đến đâu thì ông cũng chỉ mới xưvng vương, chưa đủ thực lực xưng đế trong ngày một ngày hai. Chỉ có điều, bề ngoài ông xưng vương nhưng bên trong đã lập triều đình theo nghi thức đế, thực hiện phép ngoại giao “thần phục giả vờ, độc lập thật”. Trong buổi đầu xây nền đắp móng, công lao “nối lại” chính thống nước Việt của Ngô Quyền đã được ghi nhận đúng mức.

Không những coi trọng nền độc lập, tự chủ của dân tộc, Lê Văn Hưu càng đề cao sự thống nhất quốc gia trong những thế kỷ đầu tiên đất nước ta vừa bước ra khỏi hơn ngàn năm đêm trường Bắc thuộc. Vì vậy, công lao dẹp loạn Mười hai sứ quân của Đinh Tiên Hoàng (925-979) thu non sông về một mối, rất được Lê Văn Hưu tán thưởng: “Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà Mười hai sứ quân phục hết..”. Trong các cố gắng “mở nước, đóng đô, xưng hoàng đế, đặt trăm quan, dựng sáu quân, chế độ gần đử” thì việc xưng hoàng đế đánh dấu một bước phát triển mới trong nhận thức về nền độc lập và chủ quyền dân tộc. Từ việc xưng vương đến xưng đế là cả một khoảng cách và sự thay đổi về chất trong nhận thức. Bởi lẽ khi xưng vương là vẫn thừa nhận thần phục hoàng đế phương Bắc, còn khi xưng đế thì đã nâng mình lên vị thế ngang hàng, tự tin và tỏ rõ bản lĩnh “các đế nhất phương” (mỗi đế là chủ một phương). Ghi nhận điều này, Lê Văn Hưu không chỉ đánh giá tài năng sáng suốt, dũng lược hơn đời của Đinh Tiên Hoàng mà đã nâng tầm con người lên bậc thánh triết, tinh hoa nước Việt, tầm vóc vũ trụ, mở thông tới ý trời và để ngỏ sự đồng cảm, niềm ngưỡng vọng cho cả phía người đọc: “Chắc là ý trời vì nước Việt ta lại sinh bậc thánh triết để tiếp nối chính thống của Triệu Vương chăng?”.

Quan tâm tha thiết đến cuộc sống của nhân dân, ông cũng nghiêm khắc phê phán những hành vi bạo ngược, trái đạo lý của vua chúa như sự kiện vào năm Thiên Thuận thứ 3 đời Lý Thần Tông (1130): “Xuống chiếu cho con gái các quan không được lấy chồng trước, đợi sau khi chọn sung vào hậu cung”. Lê Văn Hưu phê phán: “Trời sinh ra dân mà đặt vua để chăn dắt, không phải để cung phụng riêng cho vua. Lòng cha mẹ ai chẳng muốn con cái có gia thất, thánh nhân thể lòng ấy còn sợ kẻ thất phu, thất phụ không được có nơi có chốn... Thần Tông xuống chiếu cho con gái các quan phải đợi xong việc tuyển người vào cung rồi mới được lấy chồng, thế là để cung phụng riêng cho mình, đâu phải là lòng làm cha mẹ của dân?”..... Hơn nữa, vua Lý Thần Tông còn nổi tiếng mê tín dị đoan, ham những chuyện kỳ dị, điềm lành dữ, việc khác thường, rất thích những vật lạ, phàm ai có hươu trắng hươu đen hay chim sẻ trắng, rùa trắng đều phải đem dâng. Lần ấy có tên lính Đỗ Khánh đem dâng con cá hầu và cá công có sắc vàng.

Nhà vua cho đấy là điềm lành, xuống chiếu cho bề tôi chúc mừng. Lại nói chuyện Nguyễn Lộc và Nguyễn Tử Khắc đều là thân vương nhà Lý, làm quan dưới triều Lý Thần Tông. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Thân vương Nguyễn Lộc tâu rằng, ở núi Tản Viên có hươu trắng. Vua sai Thái úy Dương Anh Nhĩ đi bắt được, bèn cho Lộc tước Đại liêu ban... Tháng 3, Nguyễn Tử Khắc tâu rằng, ở rừng Giang Để có hươu trắng. Vua sai Thái úy Lưu Khánh Đàm đi bắt được, bèn thăng Tử Khắc làm Khu mật sứ, xếp vào hàng tước Minh tự, được đội mũ bảy cầu”... Trước những sự việc trên, Lê Văn Hưu đã phản bác lại, không coi đó là điềm lành. Ông khẳng định chỉ có “dùng được người hiền” và “được mùa” mới xứng gọi là điềm lành. Bởi lẽ việc “dùng được người hiền” sẽ giúp cho chính sự vững vàng, cơ đồ phát triển dài lâu; việc “được mùa” sẽ giúp dân chúng no đủ, đất nước thái bình. Những điềm lành như thế là điều có thể kiểm chứng, đo đếm và đem lại lợi ích thiết thực cho nhân dân, đất nước. Với cách nói loại trừ “ngoài ra không có cái gì đáng gọi là điềm lành cả”, Lê Văn Hưu đã trực diện phủ nhận cả cách nghĩ và việc làm của Lý Thần Tông. Tiếp tục phê phán quan điểm sai trái về “điềm lành” của Lý Thần Tông, tác giả dẫn lời khuyên răn của tiên vương để lại qua sách Kinh thư: “Trân cầm kỳ thú bất dục vu quốc” (Ở trong đất nước mình cai trị, không nuôi những cầm thú quý hiếm, kì lạ) và đi đến khẳng định “người thưởng và người nhận thưởng đều không phải cả”. Ông còn phân tích và chỉ rõ nguồn gốc: “Thần Tông vì được dâng thú lạ mà cho quan tước, thế là thưởng lạm”, nghĩa là phê phán nhà vua chạy theo sở thích riêng, quyền lợi riêng mà quên cả phép tắc quốc gia; “Lộc và Khắc không có công mà nhận thưởng, thế là dối vua”, có nghĩa là phê phán kẻ bầy tôi giả dối, cơ hội, nịnh hót theo cả ý thích sai trái của nhà vua. Lời bình của Lê Văn Hưu thật sự thẳng thắn, quyết liệt, tình ý sâu xa, xứng đáng là bài học cho muôn đời.

Lê Văn Hưu mất ngày 23 tháng 3 năm Nhâm Tuất (1322), táng ở cánh đồng xứ Mả Giòm, thuộc địa phận xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Hiện nay ở đó vẫn còn phần mộ với tấm bia dựng năm Tự Đức thứ 20 (1867), khắc ghi tiểu sử và một bài minh ca tụng tài đức, sự nghiệp của ông./.

Theo Danh nhân Thăng Long - Hà Nội

Bài liên quan
(0) Bình luận
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • [Podcast] Truyện ngắn: Xa - gần & tình yêu
    Reng. Reng. Reng. Là tiếng chuông điện thoại chứ không phải báo thức. Thơ giật mình, một lo lắng vơ vẩn cồn lên. Từ ngày ba mất, cô vốn sợ những tiếng chuông điện thoại vào những giờ bất thường, sáng sớm hoặc là tối khuya. Nhìn thấy số của Yên, Thơ hơi bất ngờ. Chưa bao giờ cô ấy gọi cho cô vào giờ này...
  • "Đám cưới chuột" lên sân khấu xiếc
    Chiều 13/12, Nhà hát Nghệ thuật xiếc và tạp kỹ Hà Nội đã tổ chức họp báo, giới thiệu vở diễn "Đám cưới chuột", vở diễn lấy cảm hứng từ bức tranh dân gian Đông Hồ chuẩn bị ra mắt khán giả...
  • Phi công Nguyễn Đức Soát ra mắt sách kể chuyện hồi ức “đời bay”
    Hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 – 22/12/2024), Nhà xuất bản Trẻ ra mắt bạn đọc cuốn sách “Bầu trời - Trường đại học của tôi” của Trung tướng Nguyễn Đức Soát.
  • Lịch nghỉ học kỳ I và nghỉ Tết Dương lịch 2025 của học sinh
    Bộ GD&ĐT đã công bố lịch nghỉ Tết dương lịch năm 2025 và lịch nghỉ học kỳ một của học sinh cả nước.
  • Cơ sở định vị mục tiêu, vận hội lịch sử đưa đất nước bước vào Kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
    Tổng Bí thư Tô Lâm trong các bài viết, bài nói gần đây đã nhấn mạnh đây là thời điểm Việt Nam “hội tụ” tổng hòa các lợi thế, sức mạnh để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc tiếp sau kỷ nguyên độc lập, tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội và kỷ nguyên đổi mới. Đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ rõ cơ sở định vị mục tiêu, vận hội lịch sử đưa đất nước bước vào Kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Đừng bỏ lỡ
Lê Văn Hưu – nhà sử học khơi nguồn Quốc sử
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO