Lý luận - phê bình

Đóng góp của văn nghệ sĩ nhìn từ “Đề cương về văn hóa Việt Nam”

GS.TS Lê Hồng Lý 20:05 01/04/2023

“Đề cương về văn hóa Việt Nam” (Đề cương), ngay từ khi ra đời đã cho thấy tầm nhìn và giá trị của nó đối với văn hóa Việt Nam nói chung và văn học nghệ thuật nói riêng. Sự tác động, ảnh hưởng cũng như tính thời sự của Đề cương là một nghiên cứu đáng xem xét trong lịch sử đất nước, vừa mang tính chính trị vừa mang đậm giá trị văn hóa đất nước. Song, cũng từ đó để thấy rõ vai trò đóng góp của văn nghệ sĩ qua từng giai đoạn lịch sử đất nước.

Giai đoạn đấu tranh chống Pháp

Trong bối cảnh đầu những năm 1940, cuộc đấu tranh chống phát xít Nhật và thực dân Pháp của nhân dân ta đang ở giai đoạn đấu tranh khốc liệt, dân trí và nhận thức của đồng bào còn hạn chế, một số thành phần trí thức bị sa đà vào chủ nghĩa lãng mạn, trở nên bi quan, bế tắc, hoang mang và rời xa thực tế. Bên cạnh đó, khi phát xít Nhật nhảy vào hất cẳng thực dân Pháp, thì sự tuyên truyền một nước Nhật đế quốc với tham vọng đại Đông Á, thuần chủng máu đỏ da vàng… thống lĩnh toàn thế giới đã làm không ít trí thức đương thời như tìm được cứu cánh khi theo Nhật. Một bối cảnh xã hội thực sự ảm đạm đối với đất nước trước gọng kìm một ách hai tròng của thực dân, đế quốc.

de-cuong-van-hoa-1.jpg
Các nhạc sĩ đang biểu diễn trong thờ kỳ kháng chiến chống Pháp - Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.

Chính vì thế, năm 1943, Đảng ta đưa ra bản “Đề cương về văn hóa Việt Nam” do đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo và được thông qua trong Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên) vào tháng 2/1943 nhằm thức tỉnh dân tộc và vạch đường hướng cho cuộc cách mạng. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Đề cương văn hóa đã hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang của mình là ngọn đuốc soi đường, là kim chỉ nam cho một lớp trí thức, văn nghệ sĩ còn đang bế tắc, phân vân trước thời cuộc được thức tỉnh, “từ ấy trong tôi bừng nắng hạ” (Tố Hữu). Niềm tự hào dân tộc và giá trị dân tộc của “Nước chúng ta/ Nước những người chưa bao giờ khuất/ Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất/ Những buổi ngày xưa vọng nói về” (Nguyễn Đình Thi). Từ phận người bị áp bức, từ những người dân mất nước, Đề cương đã góp phần vực dân ta vùng lên đấu tranh, bảo vệ văn hóa dân tộc, làm cho cuộc kháng chiến của đất nước mang tính chính nghĩa và đầy đủ ý nghĩa nhân văn. Từ đây, văn hóa cũng là một mặt trận - như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Kháng chiến hóa văn hóa và văn hóa hóa kháng chiến”.

Đề cương hướng đến ba nguyên tắc chính là: Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập). Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng). Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ).

Từ đó, hàng ngàn văn nghệ sĩ đã từ bỏ những mộng tưởng lãng mạn hóa nơi đô thành để “tiến mau ra sa trường” (Văn Cao) để dấn thân vào cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ cùng những “đoàn quân không mọc tóc” (Quang Dũng), và có một “Điện Biên lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” năm 1954. Dân tộc hóa, Khoa học hóa và Đại chúng hóa của Đề cương đã ăn sâu vào tư tưởng của các văn nghệ sĩ, khơi dậy cho họ lòng yêu nước nồng nàn để hoà nhập vào cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Ngoài những tác phẩm nổi tiếng kể trên, còn có thể thấy hàng trăm những tác phẩm văn học, nghệ thuật đã tham gia trực tiếp vào cuộc kháng chiến trường kỳ ấy mà đến hôm nay khi nhắc đến vẫn còn làm chúng ta bồi hồi, xao xuyến, tự hào như “Người Hà Nội”, “Bộ đội về làng”, “Lên ngàn”, “Du kích sông Thao”, “Mùa đông binh sĩ”, “Hò kéo pháo”, “Bên kia sông Đuống”, “Đồng chí”, “Núi đôi”…

Điều đáng kể ở đây đó là trong bối cảnh muôn vàn khó khăn, thiếu thốn về các nguồn tư liệu về lý luận, điều kiện học tập, tham khảo trong việc nghiên cứu, lại đang ở trong tình trạng cấp bách của việc giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu, số phận dân tộc trong lúc ngàn cân treo sợi tóc, độc lập tự do là nhu cầu quan trọng nhất trong khi ấy, mà Đảng lại đưa ra được những vấn đề mang đủ tính Dân tộc, Đại chúng và Khoa học - Những nguyên tắc mà cho đến hôm nay giá trị về tầm nhìn và tính thời sự của Đề cương càng được khẳng định một cách mạnh mẽ - Mặc dù ở giai đoạn này, tính chính trị của những nguyên tắc đã nêu được quan tâm coi trọng nhiều hơn do bối cảnh lịch sử khi đó vì mục đích giành chính quyền, giải phóng dân tộc.

Giai đoạn chống Mỹ, thống nhất đất nước

Vẫn trong tinh thần ấy, bước sang cuộc chiến chống Mỹ, Đề cương từ lý luận đến thực tiễn đã đồng hành cùng sự nghiệp kháng chiến của dân tộc, thúc đẩy toàn thể nhân dân lao vào cuộc trường chinh gian khổ hơn, dài lâu hơn và ác liệt hơn nhiều. Song tư tưởng của Đề cương đã được các văn nghệ sĩ thể hiện mạnh mẽ hơn, sâu rộng hơn trên nhiều mặt trận văn hóa nghệ thuật như văn học, âm nhạc, hội hoạ, biểu diễn, điện ảnh… Những tác phẩm văn học đã thôi thúc hàng vạn thanh niên lên đường với khẩu hiệu “cuộc đời đẹp nhất là trên trận chiến chống quân thù”, “đâu có giặc là ta cứ đi”. Những tác phẩm văn học “từ miền Nam gửi ra” đã thúc đẩy tinh thần mỗi con người Việt Nam “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Bên cạnh huy động sức người, sức của vào cuộc kháng chiến đầy gian khổ chống đế quốc Mỹ thời kỳ này, có thể thấy vai trò của văn nghệ sĩ có những đóng góp vô cùng to lớn. Những áng văn thơ lay động lòng người, khích lệ tinh thần dũng cảm, thôi thúc hàng triệu trái tim sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc, những “tiếng hát át tiếng bom”, hay những thước phim phơi trần hiện thực khốc liệt đầy mùi thuốc súng chiến trường và phải trả bằng máu của những chiến sĩ, nghệ sĩ là những đóng góp không gì thay thế được của văn nghệ sĩ trong kháng chiến chống Mỹ.

Nếu như trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đội ngũ văn nghệ sĩ của chúng ta hầu hết là những người được đào tạo từ thực tiễn, thì sang giai đoạn chống Mỹ chúng ta đã có những trường lớp đào tạo bài bản hơn về mặt lý luận và kỹ năng nghề nghiệp, điều mà trong giai đoạn trước là niềm mơ ước. Đó là các trường Đại học Tổng hợp, Đại học Sư phạm, các trường nghệ thuật ở miền Bắc thời gian đó dù phải đi sơ tán trong điều kiện vô cùng khó khăn, song đã đào tạo được một lớp nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, ca sĩ, họa sĩ, nghệ sĩ múa, đạo diễn, biên kịch… Họ vừa có tài năng vừa được đào tạo về lý luận nên đã mang trong mình tư duy lý luận khoa học về ngành nghệ thuật mà mình sở hữu. Chính điều đó đã nâng tầm cho các tác phẩm mà họ sáng tác và từ đó đưa nguyên tắc khoa học mà Đề cương đặt ra ở một tầm cao mới. Một lớp trí thức bất kể đã tốt nghiệp hay còn đang trên ghế nhà trường đều lên đường chiến đấu để có được một thế hệ nhà văn chống Mỹ như Hữu Thỉnh, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Thu Bồn, Nguyễn Như Phong, Lê Anh Xuân, Dương Thị Xuân Quý… Họ đã sát cánh cùng các nhà văn đàn anh như Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu, Anh Đức để làm nên một thế hệ nhà văn thời chống Mỹ là như vậy. Tương tự như vậy là các lĩnh vực khác như sân khấu, âm nhạc, mỹ thuật, điện ảnh… Họ đã đem “Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận” làm nên một đại thắng mùa xuân, Nam Bắc liền một dải vào năm 1975 và thống nhất một nhà năm 1976 đến hôm nay.

Cho đến hôm nay, các tác phẩm văn học nghệ thuật thời kỳ chiến tranh chống Mỹ vẫn là những tượng đài tiêu biểu trong lịch sử dân tộc. Nó cho thấy tinh thần của Đề cương thấm sâu trong tâm khảm những người văn nghệ sĩ thời kỳ đó. Một kho tàng văn học chiến tranh, một dòng nhạc đỏ và những tác phẩm nghệ thuật khác thời kỳ này đã trở thành những khuôn mẫu, những giá trị riêng phản ánh một giai đoạn văn hóa của dân tộc. Đồng thời cũng chỉ ra một tầm cao mới của Đề cương so với giai đoạn trước đó.

Giai đoạn phục hồi, xây dựng đất nước sau chiến tranh

Từ khi đất nước bước vào công cuộc Đổi mới, kinh tế dần ổn định, đời sống của nhân dân đã được cải thiện và nâng cao. Chúng ta đã có nhiều dấu ấn, thành tựu để bước đến “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” trong nhiều lĩnh vực. Chẳng hạn như lĩnh vực di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, chỉ trong một thời gian ngắn từ những năm 90 trở lại đây, chúng ta đã có hàng chục di sản thiên nhiên, danh lam thắng cảnh được thế giới công nhận, 15 di sản văn hóa phi vật thể được ghi danh vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại và cần được bảo vệ khẩn cấp. Văn hóa vật thể và phi vật thể đang là tiềm năng to lớn được khai thác cho phát triển du lịch, đem lại một nguồn lợi kinh tế không nhỏ cho các địa phương. Hơn thế là góp phần vào đời sống văn hóa tinh thần của người dân cả nước, giúp cho họ phấn khởi tự hào.
Để có được những thành quả này, sự đóng góp của các nhà khoa học, các văn nghệ sĩ có vai trò rất lớn trong việc sưu tầm, nghiên cứu, truyền dạy và phục hồi những di sản văn hóa đó. Tuy nhiên, có một điều khao khát, suy tư của nhiều nhà văn hóa, nhà thơ, nhà văn, các nghệ sĩ…, mà cũng là điều mà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đặc biệt trăn trở, với tư cách là vị lãnh đạo cao nhất đất nước, đó là văn học nghệ thuật thời gian này còn thiếu những tác phẩm “tầm cỡ, phản ánh được tầm vóc của sự nghiệp đổi mới, có tác dụng tích cực đối với việc xây dựng đất nước, xây dựng con người”. Một câu hỏi lớn, một nhiệm vụ nặng nề cho giới văn học nghệ thuật trong việc phát huy và sáng tạo Đề cương trong tình hình mới.

1..jpg
Các văn nghệ sĩ ở Thái Nguyên, năm 1949. (Từ trái qua: Ngô Tất Tố, Nguyễn Xuân Sanh, Tố Hữu, Xuân Diệu, Thế Lữ, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân) - Ảnh: Trần Văn Lưu.

Công bằng mà nói, trong các cuộc kháng chiến, mục đích cao nhất và duy nhất đó là giải phóng dân tộc, đưa đất nước đến độc lập, tự do, thống nhất, mọi suy nghĩ, công việc, nhân lực, vật lực đều hướng vào mục đích chiến thắng. Do vậy, dù khó khăn, ác liệt nhưng lại rất rõ ràng, tập trung. Nhưng khi đất nước hòa bình, chúng ta có nhiều mục tiêu khác cần chinh phục, về phục hồi chiến tranh, xây dựng kinh tế nâng cao đời sống, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa… Bao điều mới lạ, phức tạp khiến cho từ nhà quản lý đến người dân phải xoay xở để làm quen và hòa nhập, khiến cho chúng ta gặp không ít khó khăn và vấp ngã. Các văn nghệ sĩ không nằm ngoài tất cả những sự phức tạp đó. Đặc biệt, do là một bộ phận nhạy cảm của xã hội, nên nhiều khi không khỏi có những hoang mang, chán nản, tư tưởng không yên tâm. Phải chăng đó cũng là một phần nguyên nhân chưa tạo ra động lực để họ làm nên những tác phẩm lớn.

Tuy nhiên, khó khăn cũng là cơ hội cho chúng ta được dịp thâm nhập sâu vào hành trình hội nhập quốc tế, dựa trên những tiêu chuẩn chung. Những chuyển mình và thành tựu mà văn nghệ sĩ ta đạt được trong giai đoạn này có thể nhìn thấy ở các giải thưởng nghệ thuật quốc tế trong các mảng văn học, điện ảnh, mỹ thuật, nhiếp ảnh… Bên cạnh đó là các dấu ấn văn hóa mang tên Việt Nam đã được nhận diện rõ hơn trên trường quốc tế, từ du lịch, ẩm thực đến các phong tục, văn hóa truyền thống dân tộc. Tự hào thay, tất cả những điều này vẫn theo đúng con đường mà Đề cương đã vạch sẵn./.

Bài liên quan
(0) Bình luận
  • Ngô Thanh Vân, vẻ đẹp kỳ diệu của nỗi buồn
    Người xưa rất coi trọng phần nội tâm (tình) trong thơ. Không có văn bản văn học nào thể hiện cái tôi cá nhân rõ như thơ. Nói như nhà văn Trịnh Bích Ngân: “Thơ không chịu được sự che đậy... Dũng cảm phơi bày. Chân thành phơi bày”.
  • Thao thức với phần đời chiến trận
    Có thể nói cuộc kháng chiến trường kỳ hào hùng và bi tráng của dân tộc, ở bất kỳ trạng huống nào dường như đã chi phối và tạo động lực cho đội ngũ văn nghệ sĩ, những người cầm bút suy nghĩ và sáng tạo. Ta hiểu vì sao ngay trong cuộc sống thời bình, trong đời sống dân sự, những hình ảnh của ngày hôm qua vẫn khiến con người luôn “thao thức với phần đời chiến trận”.
  • Phát huy vai trò của văn nghệ sĩ Thủ đô trong phát triển công nghiệp văn hóa
    Hà Nội - Thủ đô tự nhiên của lưu vực sông Hồng, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước từ ngàn xưa đã là nơi hội tụ và đào luyện nhân tài. Phần lớn danh nhân Việt Nam từng sống, làm việc, sáng tạo ở Thăng Long - Hà Nội, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc. Ở mảnh đất hội tụ tinh hoa văn hóa bốn phương ấy, con người Thăng Long mang trong mình nét tài hoa, đa tài, đa nghệ, thấm đẫm bản sắc trí tuệ và tinh thần sáng tạo. Trong đó, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ - những người sinh ra, lớn lên hoặc gắn bó với Hà Nội đã góp phần tạo nên diện mạo văn hóa, nghệ thuật Thủ đô bằng nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, khẳng định sức sống trường tồn của văn hóa nghìn năm. Họ chính là nguồn lực đặc biệt không thể thiếu trong hành trình phát triển công nghiệp văn hóa của Hà Nội hôm nay.
  • Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong bối cảnh hội nhập
    Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết của các cấp, các ngành mà còn là sứ mệnh đặc biệt của đội ngũ văn nghệ sĩ Thủ đô. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, việc xác định rõ những trọng tâm trong xây dựng hệ giá trị văn hóa là hết sức cần thiết.
  • Những lưu dấu văn hóa về Hà Nội qua ngôn từ văn chương
    Ngay từ nền văn học Việt Nam trung đại, những trước tác về miền đất thiêng (đất thánh) Đông Đô - Thăng Long - Hà Nội đã được ghi khắc trong sử văn: “Chiếu dời đô” (thế kỷ XI) của Lý Công Uẩn, “Thượng kinh ký sự” (thế kỷ XVIII) của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, “Vũ trung tùy bút” (thế kỷ XIX) của Phạm Đình Hổ, “Long Thành cầm giả ca” (thế kỷ XIX) của Nguyễn Du, “Thăng Long thành hoài cổ” (thế kỷ XIX) của Bà Huyện Thanh Quan.
  • Hai thể thơ mới namkau và 1-2-3 trong lịch sử phát triển của các thể thơ dân tộc
    Khoảng mươi năm gần đây, trên thi đàn Việt xuất hiện hai thể thơ mới: namkau và 1-2-3. Là sản phẩm của thế kỷ công nghệ số, những thể thơ này còn đang ở thời kỳ phôi thai trứng nước.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Triển lãm nghệ thuật sơn mài chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV
    Chiều ngày 12/12/2025, “Triển lãm nghệ thuật sơn mài hướng tới chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV” đã khai mạc tại 29 Hàng Bài, phường Cửa Nam, Hà Nội. Sự kiện do Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) tổ chức, giới thiệu 44 tác phẩm sơn mài tiêu biểu của nhiều thế hệ họa sĩ Việt Nam.
  • Bạn thi nhân bên Đầm Én - Nha Trang
    Khởi nguồn từ thành Bình Định bên dòng sông Côn, lớn lên trong tình thơ của bốn thi nhân mà người đời gọi là “tứ linh”, với danh vọng thật ấn tượng “Bàn Thành tứ hữu”: Hàn Mặc Tử (long), Chế Lan Viên (phượng), Yến Lan (lân) và Quách Tấn (quy). Họ đã gắn bó với nhau bằng tất cả tấm lòng trong sáng, lãng mạn từ thuở hoa niên cho đến khi bay về trời như cánh mai mùa xuân.
  • Lễ hội Thiết kế Sáng tạo Hà Nội 2026: Nhiều không gian sáng tạo mới được khai mở
    Chiều ngày 10/12, tại Cung Thiếu nhi Hà Nội đã diễn ra Lễ công bố Khung hoạt động Lễ hội Thiết kế Sáng tạo Hà Nội 2026 và ra mắt Mạng lưới không gian sáng tạo Hà Nội. Sự kiện do UBND Thành phố Hà Nội, Hội Kiến trúc sư Việt Nam chỉ đạo; Sở Văn hóa và Thể thao và Tạp chí Kiến trúc tổ chức, cùng với sự đồng hành của UNESCO, Tập đoàn Sovico cùng nhiều đơn vị.
  • Mùa Giáng Sinh ý nghĩa cho các bệnh nhi qua chuỗi hoạt động “Trao gửi yêu thương”
    Vừa qua, Prudential Việt Nam đã phối hợp cùng Quỹ Bảo trợ Trẻ em Việt Nam trao quà cho các bệnh nhi tại Bệnh viện Nhi Đồng 1, đây là sự kiện mở đầu cho hoạt động trao tặng 2.600 phần quà với tổng trị giá 800 triệu đồng tại TP.HCM và Hà Nội, mang đến những món quà thiết thực và tinh thần tích cực cho các bệnh nhi trong mùa Giáng Sinh ấm áp, an lành.
  • Phổ cập AI cho toàn dân, nền tảng trong kỷ nguyên số
    Trong bối cảnh trí tuệ nhân tạo đang trở thành một trong những động lực cốt lõi thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đổi mới sáng tạo trên phạm vi toàn cầu, việc đưa AI đến gần hơn với người dân không còn là câu chuyện của tương lai mà đã trở thành yêu cầu cấp thiết của hiện tại.
Đừng bỏ lỡ
  • Điểm hẹn văn hóa mới bên Hồ Gươm
    Chiều nay (14/12), chương trình "Âm nhạc cuối tuần" tiếp tục được tổ chức tại Nhà Bát Giác - Vườn hoa Lý Thái Tổ. Đây không chỉ là một sân khấu biểu diễn đơn thuần, mà được kỳ vọng là bước đi chiến lược nhằm đưa nghệ thuật chất lượng cao "chạm" vào đời sống đại chúng, góp phần định vị thương hiệu "Thành phố sáng tạo".
  • Lễ Mừng cơm mới của người Si La được công nhận là Di sản văn hoá phi vật thể quốc gia
    Người Si La tổ chức Lễ mừng cơm mới khi những hạt thóc đầu mùa chín rộ và đến kỳ thu hoạch. Đây là nghi thức nông nghiệp chứa đựng nhiều nét văn hóa truyền thống được người dân gìn giữ, trao truyền qua nhiều thế hệ.
  • Khai mạc Liên hoan Ẩm thực và Du lịch làng nghề, phố nghề Hà Nội 2025
    Tối ngày 12/12, tại Không gian Văn hoá sáng tạo Tây Hồ (phố đi bộ Trịnh Công Sơn), Sở Du lịch Hà Nội tổ chức Lễ khai mạc Liên hoan Ẩm thực và Du lịch làng nghề, phố nghề Hà Nội năm 2025.
  • Chiếu phim chào mừng Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam
    Nhân dịp kỷ niệm 81 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2025), Viện Phim Việt Nam tổ chức chiếu phim, ba tác phẩm được lựa chọn chiếu trong dịp này là "Bản nhạc người tù", "Phía sau cuộc chiến" và "Đứa con và người lính".
  • Tiếp tục đưa dự án “Âm nhạc cuối tuần” thành điểm hẹn văn hóa quen thuộc của người dân Thủ đô
    Vào lúc 15h30 chiều mai (14/12), chương trình "Âm nhạc cuối tuần" sẽ tiếp tục được tổ chức tại Nhà Bát Giác - Vườn hoa Lý Thái Tổ. Đây sẽ là hoạt động thường niên vào dịp cuối tuần tại không gian phố đi bộ Hồ Gươm với nhiều chương trình biểu diễn nghệ thuật đặc sắc.
  • Phát triển sân khấu Việt Nam từ góc nhìn lực lượng sáng tạo trẻ
    Trong bối cảnh sân khấu Việt Nam đứng trước yêu cầu đổi mới mạnh mẽ để thích ứng với đời sống nghệ thuật đương đại, lực lượng trẻ đóng vai trò quan trọng, góp phần định hình diện mạo sân khấu hôm nay và tương lai. Tại tọa đàm “Lực lượng trẻ trong sự phát triển sân khấu hiện nay” do Hội Sân khấu Hà Nội tổ chức sáng 10/12/2025, các ý kiến tham luận không chỉ làm sáng tỏ thực trạng “khủng hoảng” thiếu nghệ sĩ trẻ mà còn gợi mở nhiều giải pháp thiết thực nhằm phát huy công tác đào tạo và sử dụng nguồn lực tài năng trẻ sân khấu trong thời kỳ mới.
  • Đô thị Huế trong dòng chảy lịch sử
    Các nhà khoa học, chuyên gia thảo luận và chia sẻ về “Đô thị Huế trong dòng chảy lịch sử” tại hội thảo khoa học do Hội Khoa học Lịch sử TP Huế tổ chức.
  • UNESCO ghi danh Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ vào Danh mục di sản cần bảo vệ khẩn cấp
    Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ ở khu phố Đông Khê, phường Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, ra đời cách đây khoảng 500 năm. Cộng đồng thực hành nghề đã tạo ra những bức tranh có đặc trưng riêng về chủ đề, kỹ thuật in, màu sắc và đồ họa bằng kỹ thuật in khắc gỗ.
  • Dự án xây dựng cầu Ngọc Hồi: Mở biên độ phát triển kinh tế xã hội Thủ đô Hà Nội
    Hiện thực hóa mục tiêu phát triển Thủ đô “Văn hiến – Văn minh – Hiện đại” trong kỷ nguyên mới, Thành phố Hà Nội khẳng định việc đầu tư xây dựng cầu Ngọc Hồi và đường dẫn hai đầu cầu theo quy hoạch sẽ tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội khu vực phía Nam của Thủ đô, cũng như các tỉnh phía Nam và Đông – Nam của Vùng Thủ đô như Hưng Yên, Ninh Bình và Bắc Ninh.
  • "Trần Nhân Tông" - Vở diễn kết hợp cải lương và nghệ thuật xiếc
    Tối ngày 8/12, tại Hà Nội, Nhà hát Sân khấu Truyền thống quốc gia Việt Nam phối hợp cùng Liên đoàn Xiếc Việt Nam đã tổ chức buổi tổng duyệt vở diễn "Trần Nhân Tông" - một dự án nghệ thuật quy mô lớn, đầy tính thử nghiệm.
Đóng góp của văn nghệ sĩ nhìn từ “Đề cương về văn hóa Việt Nam”
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO