Lý luận - phê bình

Thế hệ nhà văn 1975 trong không gian văn học đương đại

Nhà văn Bùi Việt Thắng 09:41 20/04/2025

Lớp nhà văn sinh từ 1975, chúng tôi gọi là “Thế hệ 1975”, một lực lượng đông đảo (sinh ra trong vòng 20 năm, sau giải phóng miền Nam), các tác giả là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hoặc những cây bút nhiều triển vọng.

Trong bài viết này, chúng tôi chỉ “chạm” đến “Thế hệ 1975” chuyên sáng tác văn/ thơ, còn các tác giả viết lý luận, phê bình sẽ được đề cập riêng trong một bài khác.

Con số 50 gương mặt tiêu biểu hàm nghĩa một thời kỳ lịch sử nửa thế kỷ (1975 - 2025). Sáng tác văn xuôi có: Đỗ Bích Thúy (1975), Võ Diệu Thanh (1975), Nguyễn Thị Lê Na (1975), Phong Điệp (1976), Tống Ngọc Hân (1976), Trần Đức Tĩnh (1976), Nguyễn Ngọc Tư (1976), Phạm Thị Duyên (1977), Uông Triều (1977), Nguyễn Xuân Thủy (1977), Mai Phương (1977), Nguyễn Hương Duyên (1977), Di Li (1978), Vũ Thanh Lịch (1978), Nguyễn Thị Hồng Chính (1979), Phan Thúy Hà (1979), Niê Thanh Mai (1980), Chu Thị Minh Huệ (1981), Nguyễn Văn Học (1981), Trần Quỳnh Nga (1981), Thương Hà (1981), Trần Thị Tú Ngọc (1984), Nguyễn Thị Kim Hòa (1984), Văn Thành Lê (1986), Nguyệt Chu (1986), Trác Diễm (1987), Vũ Thị Huyền Trang (1987), Hoàng Công Danh (1987), Lê Vũ Trường Giang (1988), Đinh Phương (1989), Meggie Phạm (1991), Đỗ Nhật Phi (1991), Huỳnh Trọng Khang (1992), Phan Đức Lộc (1995).

Những căn rễ của sự cách tân tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975
Ảnh minh họa.

Sáng tác thơ có: Nguyễn Thị Hạnh Loan (1976), Bình Nguyên Trang (1977), Bế Kim Loan (1977), Phạm Thùy Vinh (1977), Trần Vũ Long (1977), Đỗ Doãn Phương (1977), Vi Thùy Linh (1980), Nguyễn Quang Hưng (1980), Phạm Vân Anh (1980), Trần Hoàng Thiên Kim (1981), Phạm Thúy Nga (1981), Thy Lan (1982), Khúc Hồng Thiện (1983), Đào Quốc Minh (1986), Lữ Thị Mai (1988), Nguyễn Thị Kim Nhung (1990).

Trong số 50 tên tuổi kể trên có khoảng 90% là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hơn 70% cây bút viết văn xuôi, gần 30% cây bút làm thơ, hơn 70% là các cây bút nữ (kiến tạo nên văn chương mang gương mặt nữ). Có “âm thịnh dương suy”?! Không hẳn. Đơn giản là vì thời đại kinh tế được đặt lên hàng đầu trong cuộc phấn đấu sinh tồn của mỗi người thì phái mày râu ít người theo đuổi nghề văn (dễ mang lấy nghiệp văn). Trong lực lượng hùng hậu này, số người làm thơ chỉ chiếm gần 30%. Vì sao? Không khó giải thích, vì “cơm áo không đùa với khách thơ”, trong khi văn xuôi đang đăng đàn (thời đại đang cung cấp nhiều “cốt truyện”, “nhân vật”, “tình huống” điển hình); độc giả đang xa rời thơ bởi vì “thơ cốt chơn” (chân), nhưng khi soi vào thơ họ không tìm được sự cộng cảm cần thiết.

Về trình độ học vấn của “Thế hệ 1975”, nếu so với các thế hệ tiền nhiệm là cao hơn hẳn (tuyệt đại đa số đều có trình độ cử nhân). Nhưng học vấn và văn hóa không tỷ lệ thuận. Sáng tác văn học nghệ thuật lại đòi hỏi vốn liếng đầy đặn của trải nghiệm sống. Theo cách diễn đạt của nhà văn Nguyễn Tuân thì công việc của người viết văn là “đi - đọc - viết”. Liệu các tác giả “Thế hệ 1975” đã thực hành đầy đủ công thức (yêu cầu) vừa là tối thiểu, vừa là tối đa này trong một không gian mở?!

Quan niệm văn chương (về sứ mệnh của văn chương, trách nhiệm của nghệ sỹ ngôn từ) bao giờ cũng có vai trò kiến tạo, dẫn dắt hành động sáng tác. Quan niệm văn chương có thể trực tiếp thể hiện qua các quan điểm, cũng có thể qua thực tế viết (cảm hứng, hình tượng, khuynh hướng,...). Một thời gian dài quan niệm “văn chương là một trò chơi vô tăm tích” không thể nói không ảnh hưởng đến những người cầm bút trẻ. Không ít người trẻ có nhu cầu bức bách muốn khước từ tính “toàn trị” của phương pháp sáng tác (ở đây là khước từ “Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa” vốn được coi là quan trọng trong phạm trù “văn học cách mạng”), chỉ chấp nhận cá tính, đòi hỏi tự do (tuyệt đối) sáng tác. Không ít người nhiệt tình cổ súy, đề cao “cái khác” (thực chất là cái lạ), cổ súy cho “ngoại biên”, từ chối “đại tự sự”, cổ vũ nhiệt thành cho các ism (chủ nghĩa) du nhập từ phương Tây (Chủ nghĩa hậu hiện đại, chẳng hạn). Tuy nhiên, không phải người viết trẻ nào cũng say mê các “trò chơi” chữ nghĩa. Tác giả Hoàng Công Danh nghiêm túc: “Tôi nghĩ, cũng như tôn giáo, văn chương là liều cứu rỗi, nó sẽ đồng hành cùng con người, nâng dìu con người đi qua bể khổ đời. (...); văn chương có ích cho cuộc đời này, nếu không, từ bao giờ đến bây giờ nó đã chẳng tồn tại” (dẫn theo Hoàng Đăng Khoa, “Song hành và đối thoại”, Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2018, tr.21). Đồng quan niệm, Vũ Thanh Lịch chia sẻ: “Với tôi, văn chương là sự cứu rỗi, nơi cho tôi nguồn sinh lực” (Văn nghệ quân đội số 933+934/ 2020, tr.44). Phong Điệp, tác giữ giữ kỷ lục viết (đã xuất bản 20 tác phẩm, đã có sách được dịch và giới thiệu ở Mỹ, Pháp), chân thành bày tỏ: “Văn chương giúp tôi sống có ý nghĩa hơn” (dẫn theo Hoàng Đăng Khoa, Sđd, tr.35).

Thực hành sáng tác là thước đo cao nhất khi đánh giá “Thế hệ 1975”, thực tế họ đã tạo nên một “làn sóng mới”, góp vào nền văn chương hiện đại một số lượng tác phẩm không thể nói là ít, tạo nên cái không khí rôm rả, thậm chí “phì đại” của đời sống văn chương. Nhìn vào sản phẩm, dễ thấy họ đã làm được một khối lượng lớn công việc. Nhưng mặt khác cũng thấy, không ít người trong số họ coi viết văn là một cuộc “phiêu lưu chữ”, là “trò chơi ngôn từ”, nên các tính năng xã hội của văn chương dường như bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Tuy nhiên, công bằng trong đánh giá, cần ghi nhận nỗ lực của không ít nhà văn đã cố gắng gìn giữ những chuẩn mực văn chương và kiến tạo lưng vốn tác phẩm đầy đặn, vừa lưu giữ được truyền thống vừa tích cực đổi mới. Có một Đỗ Bích Thúy (đã in 23 tác phẩm văn xuôi, trong đó có 6 tiểu thuyết), được coi là người níu giữ hồn vía của núi rừng quê hương, dù đi đâu, làm gì cũng không hề vong bản. Có một Nguyễn Quang Hưng - người trẻ nhưng đau đáu với “chia ngũ cốc” nhan đề một tập thơ hay trong số 10 tác phẩm gồm trường ca, thơ, tản văn, ký chân dung, thời luận đã xuất bản). Có một Tống Ngọc Hân (đã in 3 tiểu thuyết, 6 tập truyện ngắn, 2 tập thơ) gồng mình hết mức vượt khó, vượt khổ để chung thủy với văn chương và luôn đứng về “phe nước mắt” (quan tâm viết về những con người bình thường nhưng không tầm thường với những “số phận bên lề”). Có người nỗ lực vượt lên rất cao so với mặt bằng văn chương và thế hệ như Nguyễn Ngọc Tư với “Cánh đồng bất tận” (Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, năm 2006; Giải thưởng Văn học ASEAN, năm 2008).

Đánh giá “Thế hệ 1975” là việc không dễ dàng vì nó là một thực thể văn chương đang vỡ ra và phát triển. Nhưng rõ ràng là, thế hệ này muốn đi xa, đi đường dài với văn chương thì tối cần thiết phải trải nghiệm sống và trải nghiệm văn hóa nhiều hơn, sâu hơn, cao hơn, nếu không, họ sẽ bị “đứt gãy” với truyền thống, với các thế hệ tiền bối. Trong trải nghiệm văn hóa, theo chúng tôi, có thể bằng con đường/cách thu hút tinh hoa văn hóa dân gian (folklore) và văn hóa truyền thống dân tộc (tinh hoa nhất qua văn chương cổ điển và hiện đại). Chắc rằng nhiều người trong “Thế hệ 1975” không còn nhớ (hoặc không đọc) luận văn xuất sắc của Xuân Diệu “Sự uyên bác với việc làm thơ” (1985), sau khi viết xong dự định tự mình đọc trước Hội nghị Những người viết văn trẻ toàn quốc, nhưng không kịp. Song, những lời hay ý đẹp thì mọi người đã kịp đón nhận (sau đó được in trên Tạp chí Văn học, số 1-1986). Nhiều người rất thích ý tưởng thâm hậu của thi nhân hiện hình trên từng câu chữ: “Chao ôi! Chúng ta làm việc còn ít quá, chúng ta yêu thơ văn của dân tộc còn thiếu sót quá; thơ của chúng ta mấy chục năm nay đã hay rồi, tuy nhiên theo tôi nghĩ, nếu chúng ta tiếp nhận đầy đủ sâu sắc hơn nữa cái vốn truyền thống của cha ông, thì thơ hiện kim của ta có thể còn hay hơn nữa, sâu hơn nữa, phải uyên bác chứ; nếu không ai chịu uyên bác thì các tuyển tập làm xong in xong rồi, lắm bài thơ hay cứ phải nằm ngửa trong các tủ sách, thiếu một tâm hồn, một tâm trí đến đánh thức những bài ấy dậy, trở thành nụ cười, giọt lệ của chúng ta, đi với chúng ta, để cùng đánh giặc, cùng xây dựng (...). Đối với vốn thơ dân tộc, chúng ta còn nhiệm vụ uyên bác hơn nữa, để rút tối đa mật nhụy.” (“Xuân Diệu - Tác phẩm chọn lọc”, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2009, tr. 206 - 208).

“Thế hệ 1975”, theo chúng tôi, đang thiếu hành trang đi xa ngay chính trên đất nước mình, chưa nói đến việc đi ra thế giới do chỗ còn thiếu trải nghiệm sống cuộc đời thực với muôn vàn sắc màu, âm thanh, mùi vị, đường nét; trong vô vàn nỗi niềm, cơ sự, tình huống, số phận, cảnh ngộ. “Sống ảo” là một đặc trưng của giới trẻ hôm nay (Việt Nam là một trong các “cường quốc” về số người sử dụng internet và mạng xã hội). Không nhiều người dũng cảm xông vào “tâm bão” của đời sống (nên thích trú ngụ trong cô đơn, quá khứ, trong kỳ ảo, viễn tưởng, hoang đường, ca tụng thân xác). Đọc họ, có cảm giác thấy thiếu hụt, mờ nhạt cuộc đời thực, chỉ thấy nổi lên hàng đầu “tự ngã trung tâm”. Vì vậy, nếu độc giả có quay lưng với sáng tác văn chương nói chung, văn trẻ nói riêng thì không có gì khó giải thích. Hiện thực đời sống luôn “mời mọc” nhà văn, nhưng liệu họ có mặn mà, khắc khoải, say mê tìm tòi, có dám dấn thân và lựa chọn (!?).

Không hề cũ khi chúng ta ghi nhớ quan niệm của nhà văn Nguyễn Minh Châu: “Mỗi nhà văn gắn chặt với số phận dân tộc và đất nước mình - như cái đai của người mẹ quấn quanh mình đứa trẻ. Và hình như còn hơn thế nữa. Người nghệ sĩ là một đứa con của đất nước mà chỉ có nó mới có thể giao cảm hết những cái vui buồn và nhọc nhằn của người mẹ - cả những điều mà người mẹ không bao giờ nói ra” (“Di cảo Nguyễn Minh Châu”, Nxb Hà Nội, 2009, tr. 363).
“Thế hệ 1975” liệu có thể trở thành những nghệ sĩ ngôn từ đích thực như mong ước của các nhà văn tài năng thế hệ đi trước, của bạn đọc hôm nay (?!). Câu trả lời thuyết phục đang ở phía trước nhà văn./.

Bài liên quan
(0) Bình luận
  • Nguyễn Chính và những trăn trở “nắng đã qua thu”
    “Nắng đã qua thu” là tập thơ thứ 10 của nhà thơ Nguyễn Chính - hội viên Hội Nhà văn Hà Nội, được Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành đầu năm 2025, với lời giới thiệu trang trọng, hấp dẫn của nhà thơ Đặng Huy Giang.
  • Tình đất đai xứ sở ngả bóng trong văn chương
    Ngày 20/7/1954, Hiệp định Genève được ký kết, nước ta tạm thời chia cắt làm hai miền và 21 năm sau (năm 1975) mới tái thống nhất. Tình cảm ấy ngả bóng vào văn chương tạo nên một không gian cảm xúc trùng điệp nỗi nhớ thương đất đai sông núi, chưa từng có trong tiến trình văn chương nước nhà, cả văn xuôi lẫn thơ.
  • Thơ ca giải phóng miền Nam: Một hình thái đặc thù trên tiến trình văn học 1954 - 1975
    Trong bức tranh toàn cảnh thơ ca giai đoạn 1954 - 1975 không thể không kể đến thơ ca giải phóng miền Nam, một bộ phận thơ ở tuyến đầu chống Mỹ ngụy, với một đội ngũ nhà thơ triệt để và đầy bản lĩnh trong quan niệm nghệ thuật: lấy thơ ca làm vũ khí chiến đấu “Thơ là súng là gươm” (Lê Anh Xuân). Có thể nói, đây là quan niệm chung chi phối cảm hứng và tư thế diễn ngôn của văn nghệ sĩ trong văn học giai đoạn chiến tranh và cách mạng.
  • Văn học thiếu nhi Việt Nam: Những bước chuyển mình sau ngày đất nước thống nhất
    Sau 21 năm bị chia cắt, hai miền Nam - Bắc Việt Nam được nối liền một dải nhờ chiến thắng lịch sử mùa xuân năm 1975. Hòa chung niềm vui lớn của đất nước là niềm vui của sách văn học thiếu nhi khi được phát hành suốt từ Bắc tới Nam.
  • Hình ảnh người mẹ qua các tác phẩm trong sách giáo khoa Ngữ văn hiện nay
    Trong thơ ca Việt Nam, hình tượng người mẹ không chỉ mang ý nghĩa sinh thành, dưỡng dục mà còn là biểu tượng của sự hi sinh thầm lặng, lòng bao dung vô hạn và những giá trị văn hóa truyền thống bền vững.
  • Cây bút nữ với đề tài chiến tranh
    Trong lịch sử văn học, khi đề cập đến đề tài chiến tranh, phần lớn những gương mặt được ghi dấu trên văn đàn thường là nam giới.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Tác phẩm chính luận tiêu biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Di sản tư tưởng và giá trị trường tồn của báo chí cách mạng
    Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/6/1925 – 21/6/2025), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật cho ra mắt ấn phẩm “Một số tác phẩm chính luận tiêu biểu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh – người khai sinh nền báo chí cách mạng Việt Nam, nhà tư tưởng lớn, danh nhân văn hóa kiệt xuất của dân tộc và nhân loại. Cuốn sách là lời tri ân sâu sắc tới cây bút cách mạng kiên trung, đồng thời là tài liệu quý khẳng định sức sống mạnh mẽ và giá trị bền vững của báo chí cách mạng trong suốt một thế kỷ qua.
  • Nhớ giàn nho của ngoại
    Sớm mai thức giấc, ánh nắng lọt qua khung cửa sổ, dịu dàng rơi trên bàn làm việc, lướt nhẹ lên những đồ vật quen thuộc: vài cuốn sách đang đọc dở, ly trà còn vương hơi ấm và... một chùm nho. Đưa mắt nhìn thật lâu vào chùm nho ấy, một cảm giác xao xuyến đầy mến thương y như vừa tìm được một người bạn cũ lâu ngày không gặp ùa về trong tôi.
  • “Địa đạo” - Tái hiện ký ức chiến tranh hào hùng
    Sau hơn một thập kỷ ấp ủ từ ý tưởng tới hiện thực, đạo diễn Bùi Thạc Chuyên vừa cho ra mắt tác phẩm mới “Địa đạo: Mặt trời trong bóng tối”. Bộ phim kể lại cuộc sống và chiến đấu cam go của 21 chiến sĩ du kích Bình An Đông dưới lòng đất Củ Chi năm 1967. Từ năm 2014 đến 2016, đạo diễn đã tiến hành viết kịch bản cho bộ phim “Địa đạo” với tâm niệm “Củ Chi đã chọn mình, không được phép từ chối!”. Đó là mong muốn trở về với cội nguồn bi tráng của dân tộc và đặt câu hỏi về những giới hạn con người bị đẩy tới trong khói lửa.
  • Vở chèo cổ "Trinh Nguyên" do NSND Trần Quốc Chiêm phục dựng: Cổ vũ con người luôn vươn lên hướng thiện
    Tối 31/5, tại Rạp Đại Nam, Nhà hát Chèo Hà Nội công diễn vở chèo cổ “Trinh Nguyên” do NSND Trần Quốc Chiêm phục dựng. Vở diễn đã chạm đến trái tim khán giả bằng một câu chuyện gia đình đầy xúc động, nơi tình mẫu tử thiêng liêng, lòng hiếu thảo và nghĩa tình anh em được khắc họa sâu sắc qua nghệ thuật sân khấu truyền thống.
  • Vui

    Vui

    Tạp chí Người Hà Nội trân trọng giới thiệu tới quý độc giả bài thơ Vui của tác giả Đặng Thiêm.
Đừng bỏ lỡ
  • TP. Huế báo cáo gì về việc bảo vật Quốc gia “Ngai vua triều Nguyễn” bị xâm hại?
    UBND Thành phố Huế báo cáo Bộ Văn hóa, Thể theo và Du lịch kết quả thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ về việc bảo vật Quốc gia “Ngai vua triều Nguyễn” bị xâm hại ngày 24/5.
  • Người mẹ của những trẻ em khuyết tật
    Hơn 80 tuổi, bà Phan Thị Phúc (hiện sống tại phố Nguyên Hồng, Đống Đa, Hà Nội) vẫn miệt mài với công việc gieo mầm yêu thương, giúp nhiều trẻ em khuyết tật trưởng thành, tự tin hơn và hòa nhập với cộng đồng. Ở Câu lạc bộ Văn nghệ trẻ em khuyết tật Hà Nội, các học trò đều gọi bà bằng cái tên đầy trìu mến: “Mẹ Phúc”.
  • “Mỗi cơ quan báo chí là một cơ quan văn hoá”
    Sáng 31/5 tại Trung tâm Hội nghị TP. Hải Phòng do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với UBND TP Hải Phòng, Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức Diễn đàn “Vai trò của báo chí trong việc thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp văn hoá”. Đây là diễn đàn thiết thực nằm chuỗi các hoạt động hướng đến Kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6/1925 - 21/6/2025). Diễn đàn gồm 2 phiên. Phiên 1, với nội dung vai trò của báo chí trong phát triển các ngành công nghiệp văn hoá; Phiên 2, đối thoại giữa b
  • Vở kịch “Tôi và chúng ta” mở màn “Sân khấu truyền hình” của Hà Nội
    Vở kịch "Tôi và chúng ta" – tác phẩm kinh điển của nhà viết kịch Lưu Quang Vũ – sẽ mở màn cho chương trình "Sân khấu truyền hình" do Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội thực hiện, phát sóng đầu tháng 6.
  • Những cuộc hẹn sôi nổi với sách thiếu nhi
    Một làn gió mới trong đời sống văn học thiếu nhi Việt Nam những năm gần đây phải kể tới là những cuộc hẹn giữa tác giả, dịch giả với độc giả. Trong những buổi gặp gỡ, giao lưu đó, người viết có cơ hội bước ra khỏi căn phòng sáng tác để chia sẻ sâu hơn về quá trình lao động nghệ thuật hay tìm kiếm những chất liệu mới cho nội dung tác phẩm. Điều này không chỉ giúp học sinh chủ động hơn trong việc tiếp cận sách, hiểu rõ thông điệp tác giả muốn gửi gắm mà còn khơi gợi cảm hứng để các em tìm hiểu sâu thêm về những kiến thức văn hóa, lịch sử, rèn luyện kỹ năng…
  • Người dân Hà Nội tất bật chuẩn bị Tết Đoan Ngọ
    Ngày Tết Đoan Ngọ, các khu chợ dân sinh, chợ truyền thống nhộn nhịp hơn khi người dân tất bật mua sắm các lễ vật để chuẩn bị cho mâm cúng dâng lên bàn thờ gia tiên.
  • [Video] Lễ hội Du lịch Hà Nội 2025 – Trải nghiệm tinh hoa văn hóa Thủ đô
    Tối 30/5, tại Khu di sản Hoàng thành Thăng Long, Sở Du lịch Hà Nội tổ chức khai mạc Lễ hội Du lịch Hà Nội năm 2025, với chủ đề "Trải nghiệm Hà Nội 2025". Đây là sự kiện xúc tiến quảng bá du lịch trọng điểm của thành phố Hà Nội, mang tới cho du khách nhiều trải nghiệm đặc sắc, tiếp tục xây dựng Thủ đô là điểm đến "An toàn - Thân thiện - Chất lượng - Hấp dẫn".
  • Cần có biện pháp bảo đảm tuyệt đối an toàn cho Bảo vật quốc gia
    Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch vừa có công văn gửi các Bộ, ngành, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương; UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc rà soát, đánh giá và tăng cường công tác bảo vệ, bảo quản, phát huy giá trị Bảo vật quốc gia.
  • Hà Nội: Khai mạc Lễ hội Du lịch năm 2025
    Tối 30/5, tại Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long, Sở Du lịch Hà Nội tổ chức khai mạc Lễ hội Du lịch Hà Nội năm 2025 với chủ đề “Trải nghiệm Hà Nội 2025”. Sự kiện có sự tham gia của các đồng chí lãnh đạo trung ương, thành phố Hà Nội, đại diện Đại sứ quán nhiều quốc gia và đông đảo người dân, du khách.
  • Chương trình Lễ hội Du lịch Hà Nội năm 2025
    Lễ hội Du lịch Hà Nội năm 2025 với chủ đề “Trải nghiệm Hà Nội 2025" là hoạt động xúc tiến du lịch thường niên, quan trọng trên địa bàn Thành phố; tôn vinh giá trị di sản văn hoá, lịch sử, quảng bá điểm đến, sản phẩm, dịch vụ du lịch đặc sắc của Thủ đô; thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế đến với Hà Nội, điểm đến “An toàn - Thân thiện - Chất lượng - Hấp dẫn”.
Thế hệ nhà văn 1975 trong không gian văn học đương đại
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO