Lý luận - phê bình

Thế hệ nhà văn 1975 trong không gian văn học đương đại

Nhà văn Bùi Việt Thắng 09:41 20/04/2025

Lớp nhà văn sinh từ 1975, chúng tôi gọi là “Thế hệ 1975”, một lực lượng đông đảo (sinh ra trong vòng 20 năm, sau giải phóng miền Nam), các tác giả là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hoặc những cây bút nhiều triển vọng.

Trong bài viết này, chúng tôi chỉ “chạm” đến “Thế hệ 1975” chuyên sáng tác văn/ thơ, còn các tác giả viết lý luận, phê bình sẽ được đề cập riêng trong một bài khác.

Con số 50 gương mặt tiêu biểu hàm nghĩa một thời kỳ lịch sử nửa thế kỷ (1975 - 2025). Sáng tác văn xuôi có: Đỗ Bích Thúy (1975), Võ Diệu Thanh (1975), Nguyễn Thị Lê Na (1975), Phong Điệp (1976), Tống Ngọc Hân (1976), Trần Đức Tĩnh (1976), Nguyễn Ngọc Tư (1976), Phạm Thị Duyên (1977), Uông Triều (1977), Nguyễn Xuân Thủy (1977), Mai Phương (1977), Nguyễn Hương Duyên (1977), Di Li (1978), Vũ Thanh Lịch (1978), Nguyễn Thị Hồng Chính (1979), Phan Thúy Hà (1979), Niê Thanh Mai (1980), Chu Thị Minh Huệ (1981), Nguyễn Văn Học (1981), Trần Quỳnh Nga (1981), Thương Hà (1981), Trần Thị Tú Ngọc (1984), Nguyễn Thị Kim Hòa (1984), Văn Thành Lê (1986), Nguyệt Chu (1986), Trác Diễm (1987), Vũ Thị Huyền Trang (1987), Hoàng Công Danh (1987), Lê Vũ Trường Giang (1988), Đinh Phương (1989), Meggie Phạm (1991), Đỗ Nhật Phi (1991), Huỳnh Trọng Khang (1992), Phan Đức Lộc (1995).

Những căn rễ của sự cách tân tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975
Ảnh minh họa.

Sáng tác thơ có: Nguyễn Thị Hạnh Loan (1976), Bình Nguyên Trang (1977), Bế Kim Loan (1977), Phạm Thùy Vinh (1977), Trần Vũ Long (1977), Đỗ Doãn Phương (1977), Vi Thùy Linh (1980), Nguyễn Quang Hưng (1980), Phạm Vân Anh (1980), Trần Hoàng Thiên Kim (1981), Phạm Thúy Nga (1981), Thy Lan (1982), Khúc Hồng Thiện (1983), Đào Quốc Minh (1986), Lữ Thị Mai (1988), Nguyễn Thị Kim Nhung (1990).

Trong số 50 tên tuổi kể trên có khoảng 90% là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hơn 70% cây bút viết văn xuôi, gần 30% cây bút làm thơ, hơn 70% là các cây bút nữ (kiến tạo nên văn chương mang gương mặt nữ). Có “âm thịnh dương suy”?! Không hẳn. Đơn giản là vì thời đại kinh tế được đặt lên hàng đầu trong cuộc phấn đấu sinh tồn của mỗi người thì phái mày râu ít người theo đuổi nghề văn (dễ mang lấy nghiệp văn). Trong lực lượng hùng hậu này, số người làm thơ chỉ chiếm gần 30%. Vì sao? Không khó giải thích, vì “cơm áo không đùa với khách thơ”, trong khi văn xuôi đang đăng đàn (thời đại đang cung cấp nhiều “cốt truyện”, “nhân vật”, “tình huống” điển hình); độc giả đang xa rời thơ bởi vì “thơ cốt chơn” (chân), nhưng khi soi vào thơ họ không tìm được sự cộng cảm cần thiết.

Về trình độ học vấn của “Thế hệ 1975”, nếu so với các thế hệ tiền nhiệm là cao hơn hẳn (tuyệt đại đa số đều có trình độ cử nhân). Nhưng học vấn và văn hóa không tỷ lệ thuận. Sáng tác văn học nghệ thuật lại đòi hỏi vốn liếng đầy đặn của trải nghiệm sống. Theo cách diễn đạt của nhà văn Nguyễn Tuân thì công việc của người viết văn là “đi - đọc - viết”. Liệu các tác giả “Thế hệ 1975” đã thực hành đầy đủ công thức (yêu cầu) vừa là tối thiểu, vừa là tối đa này trong một không gian mở?!

Quan niệm văn chương (về sứ mệnh của văn chương, trách nhiệm của nghệ sỹ ngôn từ) bao giờ cũng có vai trò kiến tạo, dẫn dắt hành động sáng tác. Quan niệm văn chương có thể trực tiếp thể hiện qua các quan điểm, cũng có thể qua thực tế viết (cảm hứng, hình tượng, khuynh hướng,...). Một thời gian dài quan niệm “văn chương là một trò chơi vô tăm tích” không thể nói không ảnh hưởng đến những người cầm bút trẻ. Không ít người trẻ có nhu cầu bức bách muốn khước từ tính “toàn trị” của phương pháp sáng tác (ở đây là khước từ “Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa” vốn được coi là quan trọng trong phạm trù “văn học cách mạng”), chỉ chấp nhận cá tính, đòi hỏi tự do (tuyệt đối) sáng tác. Không ít người nhiệt tình cổ súy, đề cao “cái khác” (thực chất là cái lạ), cổ súy cho “ngoại biên”, từ chối “đại tự sự”, cổ vũ nhiệt thành cho các ism (chủ nghĩa) du nhập từ phương Tây (Chủ nghĩa hậu hiện đại, chẳng hạn). Tuy nhiên, không phải người viết trẻ nào cũng say mê các “trò chơi” chữ nghĩa. Tác giả Hoàng Công Danh nghiêm túc: “Tôi nghĩ, cũng như tôn giáo, văn chương là liều cứu rỗi, nó sẽ đồng hành cùng con người, nâng dìu con người đi qua bể khổ đời. (...); văn chương có ích cho cuộc đời này, nếu không, từ bao giờ đến bây giờ nó đã chẳng tồn tại” (dẫn theo Hoàng Đăng Khoa, “Song hành và đối thoại”, Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2018, tr.21). Đồng quan niệm, Vũ Thanh Lịch chia sẻ: “Với tôi, văn chương là sự cứu rỗi, nơi cho tôi nguồn sinh lực” (Văn nghệ quân đội số 933+934/ 2020, tr.44). Phong Điệp, tác giữ giữ kỷ lục viết (đã xuất bản 20 tác phẩm, đã có sách được dịch và giới thiệu ở Mỹ, Pháp), chân thành bày tỏ: “Văn chương giúp tôi sống có ý nghĩa hơn” (dẫn theo Hoàng Đăng Khoa, Sđd, tr.35).

Thực hành sáng tác là thước đo cao nhất khi đánh giá “Thế hệ 1975”, thực tế họ đã tạo nên một “làn sóng mới”, góp vào nền văn chương hiện đại một số lượng tác phẩm không thể nói là ít, tạo nên cái không khí rôm rả, thậm chí “phì đại” của đời sống văn chương. Nhìn vào sản phẩm, dễ thấy họ đã làm được một khối lượng lớn công việc. Nhưng mặt khác cũng thấy, không ít người trong số họ coi viết văn là một cuộc “phiêu lưu chữ”, là “trò chơi ngôn từ”, nên các tính năng xã hội của văn chương dường như bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Tuy nhiên, công bằng trong đánh giá, cần ghi nhận nỗ lực của không ít nhà văn đã cố gắng gìn giữ những chuẩn mực văn chương và kiến tạo lưng vốn tác phẩm đầy đặn, vừa lưu giữ được truyền thống vừa tích cực đổi mới. Có một Đỗ Bích Thúy (đã in 23 tác phẩm văn xuôi, trong đó có 6 tiểu thuyết), được coi là người níu giữ hồn vía của núi rừng quê hương, dù đi đâu, làm gì cũng không hề vong bản. Có một Nguyễn Quang Hưng - người trẻ nhưng đau đáu với “chia ngũ cốc” nhan đề một tập thơ hay trong số 10 tác phẩm gồm trường ca, thơ, tản văn, ký chân dung, thời luận đã xuất bản). Có một Tống Ngọc Hân (đã in 3 tiểu thuyết, 6 tập truyện ngắn, 2 tập thơ) gồng mình hết mức vượt khó, vượt khổ để chung thủy với văn chương và luôn đứng về “phe nước mắt” (quan tâm viết về những con người bình thường nhưng không tầm thường với những “số phận bên lề”). Có người nỗ lực vượt lên rất cao so với mặt bằng văn chương và thế hệ như Nguyễn Ngọc Tư với “Cánh đồng bất tận” (Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, năm 2006; Giải thưởng Văn học ASEAN, năm 2008).

Đánh giá “Thế hệ 1975” là việc không dễ dàng vì nó là một thực thể văn chương đang vỡ ra và phát triển. Nhưng rõ ràng là, thế hệ này muốn đi xa, đi đường dài với văn chương thì tối cần thiết phải trải nghiệm sống và trải nghiệm văn hóa nhiều hơn, sâu hơn, cao hơn, nếu không, họ sẽ bị “đứt gãy” với truyền thống, với các thế hệ tiền bối. Trong trải nghiệm văn hóa, theo chúng tôi, có thể bằng con đường/cách thu hút tinh hoa văn hóa dân gian (folklore) và văn hóa truyền thống dân tộc (tinh hoa nhất qua văn chương cổ điển và hiện đại). Chắc rằng nhiều người trong “Thế hệ 1975” không còn nhớ (hoặc không đọc) luận văn xuất sắc của Xuân Diệu “Sự uyên bác với việc làm thơ” (1985), sau khi viết xong dự định tự mình đọc trước Hội nghị Những người viết văn trẻ toàn quốc, nhưng không kịp. Song, những lời hay ý đẹp thì mọi người đã kịp đón nhận (sau đó được in trên Tạp chí Văn học, số 1-1986). Nhiều người rất thích ý tưởng thâm hậu của thi nhân hiện hình trên từng câu chữ: “Chao ôi! Chúng ta làm việc còn ít quá, chúng ta yêu thơ văn của dân tộc còn thiếu sót quá; thơ của chúng ta mấy chục năm nay đã hay rồi, tuy nhiên theo tôi nghĩ, nếu chúng ta tiếp nhận đầy đủ sâu sắc hơn nữa cái vốn truyền thống của cha ông, thì thơ hiện kim của ta có thể còn hay hơn nữa, sâu hơn nữa, phải uyên bác chứ; nếu không ai chịu uyên bác thì các tuyển tập làm xong in xong rồi, lắm bài thơ hay cứ phải nằm ngửa trong các tủ sách, thiếu một tâm hồn, một tâm trí đến đánh thức những bài ấy dậy, trở thành nụ cười, giọt lệ của chúng ta, đi với chúng ta, để cùng đánh giặc, cùng xây dựng (...). Đối với vốn thơ dân tộc, chúng ta còn nhiệm vụ uyên bác hơn nữa, để rút tối đa mật nhụy.” (“Xuân Diệu - Tác phẩm chọn lọc”, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2009, tr. 206 - 208).

“Thế hệ 1975”, theo chúng tôi, đang thiếu hành trang đi xa ngay chính trên đất nước mình, chưa nói đến việc đi ra thế giới do chỗ còn thiếu trải nghiệm sống cuộc đời thực với muôn vàn sắc màu, âm thanh, mùi vị, đường nét; trong vô vàn nỗi niềm, cơ sự, tình huống, số phận, cảnh ngộ. “Sống ảo” là một đặc trưng của giới trẻ hôm nay (Việt Nam là một trong các “cường quốc” về số người sử dụng internet và mạng xã hội). Không nhiều người dũng cảm xông vào “tâm bão” của đời sống (nên thích trú ngụ trong cô đơn, quá khứ, trong kỳ ảo, viễn tưởng, hoang đường, ca tụng thân xác). Đọc họ, có cảm giác thấy thiếu hụt, mờ nhạt cuộc đời thực, chỉ thấy nổi lên hàng đầu “tự ngã trung tâm”. Vì vậy, nếu độc giả có quay lưng với sáng tác văn chương nói chung, văn trẻ nói riêng thì không có gì khó giải thích. Hiện thực đời sống luôn “mời mọc” nhà văn, nhưng liệu họ có mặn mà, khắc khoải, say mê tìm tòi, có dám dấn thân và lựa chọn (!?).

Không hề cũ khi chúng ta ghi nhớ quan niệm của nhà văn Nguyễn Minh Châu: “Mỗi nhà văn gắn chặt với số phận dân tộc và đất nước mình - như cái đai của người mẹ quấn quanh mình đứa trẻ. Và hình như còn hơn thế nữa. Người nghệ sĩ là một đứa con của đất nước mà chỉ có nó mới có thể giao cảm hết những cái vui buồn và nhọc nhằn của người mẹ - cả những điều mà người mẹ không bao giờ nói ra” (“Di cảo Nguyễn Minh Châu”, Nxb Hà Nội, 2009, tr. 363).
“Thế hệ 1975” liệu có thể trở thành những nghệ sĩ ngôn từ đích thực như mong ước của các nhà văn tài năng thế hệ đi trước, của bạn đọc hôm nay (?!). Câu trả lời thuyết phục đang ở phía trước nhà văn./.

Bài liên quan
(0) Bình luận
  • Giá trị văn hóa bền vững của nền văn học cách mạng Việt Nam 1945 - 2025
    Vai trò to lớn và quyết định của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong sự nghiệp sáng lập nền văn học cách mạng Việt Nam đã được khẳng định nhất quán. Người là kiến trúc sư vĩ đại của nền văn học cách mạng Việt Nam có bề dày truyền thống tính từ những năm 20 thế kỷ XX, với những sáng tác văn xuôi bằng tiếng Pháp (xuất bản ở Pháp), đặt nền móng cho nền văn học cách mạng (về sau được tập hợp trong tác phẩm “Nguyễn Ái Quốc: Truyện và ký”, Phạm Huy Thông dịch và giới thiệu, NXB Văn học, 1974).
  • “Lời trăm năm” và vẻ đẹp trữ tình trong thơ Hạnh Nhi
    Tiến sĩ ngôn ngữ học Nguyễn Hạnh Nhi - người con của quê hương Quảng Ngãi hiện là giảng viên Trường Đại học Phạm Văn Đồng. Chị còn được biết tới ở mảng sáng tác thơ với nhiều bài mang dấu ấn riêng. Thơ Hạnh Nhi giàu chất tự sự, lặng lẽ mà thấm sâu.
  • Còn mãi một “Thời hoa đỏ”
    Trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam, nhà thơ Thanh Tùng là gương mặt quan trọng của văn học nghệ thuật Hải Phòng nói riêng, của nền văn học Việt Nam nói chung. Cuộc đời bươn chải nhưng phóng khoáng cùng tài năng thi ca đặc biệt khiến ông được giới văn nghệ sĩ và đông đảo công chúng yêu mến, kính trọng. Dù đã khuất, nhưng thơ ông, đặc biệt là thi phẩm “Thời hoa đỏ” vẫn ghi dấu một phong cách riêng và sẽ còn sống mãi với thời gian.
  • Thiên nhiên trong kí viết về chiến tranh của Minh Chuyên
    Năm 2025, nhà văn, nhà báo, đạo diễn Minh Chuyên được Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, ghi nhận những đóng góp nổi bật cho văn học và sự nghiệp gìn giữ ký ức chiến tranh Việt Nam của ông. Không chỉ có trải nghiệm thực tế của một người lính từng xông pha gần chục năm trên chiến trường miền Nam vào những năm máu lửa, Minh Chuyên còn có đủ độ lùi thời gian cần thiết của một nhà văn thời hậu chiến để có thể nhìn về chiến tranh từ nhiều phía. Bởi vậy, chiến tranh trong ký của Minh Chuyên hiện lên đa diện, vừa chân thực vừa thấm đẫm suy tư. Thiên nhiên trong tác phẩm không chỉ là chứng nhân của tội ác, mà còn là hình tượng nghệ thuật giàu cảm xúc - như người mẹ bao dung, lặng lẽ chở che con người giữa mất mát và tàn phá.
  • Thơ ca về những người xả thân vì nghĩa lớn
    Nhân dân ta trải qua hàng nghìn năm chống chọi với thiên tai, giữ cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Nhưng trên hết, chiến tranh chống ngoại bang xâm lược hung tàn, dai dẳng là thử thách lớn nhất đối với Tổ quốc, dân tộc.
  • “Con đường tương lai ” – Hành trình trí tuệ nối dài khát vọng Việt
    Nhân dịp kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam, ngày 19/6, tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, Hội Nhà văn Hà Nội, Viện Nhân học Văn hóa, Viện Khoa học Giáo dục và Môi trường kết hợp với Sàn văn hóa Học và Đọc Việt Nam, Nhà xuất bản Thể thao và Du lịch tổ chức Hội thảo khoa học đánh giá tập 1 và định hướng tập tiếp theo của dự án sách “Con đường tương lai”.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Lễ Quốc khánh tại Thủ đô Hà Nội: Biểu tượng văn hóa sống động, nghĩa tình, thanh lịch, văn minh
    Thủ đô Hà Nội đang trong những ngày mùa Thu lịch sử, với rất nhiều hoạt động kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh mà trọng tâm là Lễ diễu binh, diễu hành vào ngày 2/9. Đây không chỉ là ngày lễ lớn của dân tộc, mà còn là dịp để Thủ đô khẳng định đây không chỉ là nơi ghi dấu lịch sử, mà còn là biểu tượng văn hóa sống động, nghĩa tình và thanh lịch – xứng đáng là “trái tim” của cả nước.
  • Ngoại giao trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
    Đồng chí Lương Cường - Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam vừa có bài viết “Ngoại giao Việt Nam - 80 năm xây dựng, trưởng thành cùng đất nước” nhân Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập ngành ngoại giao (28/8/1945 – 28/8/2025). Tạp chí Người Hà Nội trân trọng trích đăng nội dung “Ngoại giao trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” trong toàn văn bài viết của Chủ tịch nước Lương Cường.
  • “Công cuộc đổi mới, tư duy mới, thực tiễn mới”: Kiến giải sâu sắc nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn
    Trước khi trở thành chính khách, tác giả Phạm Quang Nghị từng là chiến sĩ trực tiếp chiến đấu nơi chiến trường Nam Bộ, đồng thời ông còn là nhà báo, nhà văn, nhà nghiên cứu có tâm có tầm dành cả cuộc đời cống hiến cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những trải nghiệm thực tế sâu sắc cùng vốn sống phong phú đã hun đúc trong ông một tầm nhìn rộng mở và cả những trăn trở với thời cuộc.
  • Ra mắt tập thơ "Bốn mùa cờ bay" của tác giả Huỳnh Mai Liên
    “Bốn mùa cờ bay” của tác giả Huỳnh Mai Liên ra mắt đúng dịp kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9, là một hải trình đến Trường Sa bằng thơ đầy rung cảm, như một con sóng nhỏ, hòa vào tình yêu lớn của dân tộc trong dấu mốc thiêng liêng của Tổ quốc.
  • "Đạo hiếu và hồn thiêng Tổ quốc" trong chương trình nghệ thuật Vu Lan 2025
    Tối 25/8, tại Cung Văn hóa Hữu nghị Việt Xô-Hà Nội đã diễn ra chương trình nghệ thuật giao lưu đặc biệt mang tên "Đạo hiếu và Hồn thiêng Tổ quốc".
Đừng bỏ lỡ
  • Xã Hồng Vân rực rỡ sắc màu làng quê mừng 80 năm Quốc khánh 2/9
    Những ngày cuối tháng Tám lịch sử, trên khắp các tuyến đường của xã Hồng Vân (TP Hà Nội), không khí rộn ràng, tươi mới hiện hữu qua hình ảnh cờ Đảng, quốc kỳ rực rỡ sắc đỏ. Người dân đi qua ai nấy đều ngỡ ngàng, xúc động và mừng vui khi thấy làng quê thân thuộc được khoác lên tấm áo mới giàu sức sống.
  • Ứng dụng “A80 - Tự hào Việt Nam”: Hỗ trợ tra cứu chuỗi hoạt động dịp Quốc khánh 2/9
    Ứng dụng “A80 - Tự hào Việt Nam” cập nhật chi tiết thông tin về chương trình triển lãm, nghệ thuật, diễu binh kèm theo hướng dẫn tham gia và các lưu ý cần thiết.
  • Lan tỏa ý thức, chung tay bảo vệ môi trường trong đại lễ Quốc khánh 2/9
    Những ngày tháng Tám lịch sử, Thủ đô Hà Nội khoác lên mình diện mạo mới rực rỡ và tràn đầy sức sống với hàng triệu sắc đỏ cờ Tổ quốc tung bay trên nền trời xanh, tạo nên khung cảnh trang nghiêm và thiêng liêng, khơi dậy niềm tự hào, xúc động sâu lắng trong trái tim mỗi người dân.
  • Không khí Tháng Tám rực rỡ trên từng góc phố Tây Hồ
    Trong những ngày tháng Tám lịch sử, khi cả nước hướng về kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9, khắp các tuyến phố của Thủ đô Hà Nội đều rộn ràng sắc đỏ sao vàng. Tại phường Tây Hồ, những lá cờ Tổ quốc tung bay kiêu hãnh trên từng ngõ nhỏ, con hẻm, tạo nên bức tranh rực rỡ, chan chứa niềm tự hào dân tộc và tinh thần chuẩn bị cho ngày lễ trọng đại của đất nước.
  • Hà Nội miễn vé xe buýt và đường sắt đô thị dịp Quốc khánh 2/9
    UBND TP Hà Nội quyết định miễn tiền vé sử dụng các phương tiện vận tải hành khách công cộng có trợ giá, gồm xe buýt và đường sắt đô thị trong bốn ngày từ 30/8- 2/9/2025.
  • Khát vọng phát triển, xây dựng người Kim Liên thanh lịch, văn minh
    Đại hội đại biểu Đảng bộ phường Kim Liên lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030 diễn ra ngày 22/8 với chủ đề “Phát huy truyền thống lịch sử, văn hóa, anh hùng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; kỷ cương, sáng tạo, trách nhiệm".
  • Chương trình nghệ thuật đặc biệt “Hà Nội - Sáng mãi khát vọng Việt Nam”
    Chương trình là lời tri ân sâu sắc tới các thế hệ đi trước - những người đã hiến dâng tuổi trẻ và xương máu cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Đồng thời, tôn vinh những thành tựu nổi bật, toàn diện và bền vững mà đất nước nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng đã đạt được, đặc biệt sau 40 năm đổi mới.
  • "Nhà tôi có treo một lá cờ" - MV mới của Hà Anh Tuấn rợp sắc cờ đỏ, gợi niềm tự hào Việt Nam
    Ca khúc "Nhà tôi có treo một lá cờ" là bài hát trong MV mới của ca sĩ Hà Anh Tuấn. Ca khúc chứa chan tình yêu dành cho Quốc kỳ của người Việt Nam. Đồng thời là lời tri ân đến các thế hệ cha anh đã hy sinh vì độc lập, tự do; đồng thời gửi gắm thông điệp về niềm tự hào và trách nhiệm của thế hệ hôm nay trong hành trình dựng xây đất nước.
  • [Podcast] Cổng trại bảo an binh – Dấu ấn ngày toàn thắng
    Mùa thu năm 1945, Hà Nội rợp cờ đỏ sao vàng, khắp phố phường vạn người như một cùng cất tiếng hô vang “Độc lập – Tự do”, đánh dấu thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám. Trải qua tám thập kỷ, nhiều di tích từ mùa thu năm ấy vẫn còn hiện hữu giữa đời sống hôm nay, kể lại câu chuyện của một Thủ đô Anh hùng của đất nước Việt Nam anh hùng. Trong dòng chảy ấy, Cổng Trại Bảo An binh chính là dấu tích của cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 - một sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước.
  • "Hạt giống hạnh phúc" - Phim tài liệu đặc biệt về tình hữu nghị Việt Nam và Cuba phát sóng tối 2/9
    Bộ phim tài liệu với tên gọi "Hạt giống hạnh phúc" sẽ được phát sóng vào 20h10 tối 2-9-2025 trên kênh VTV1. Cùng thời điểm này, Truyền hình Quốc gia Cuba - Cubavisión cũng phát sóng bộ phim đặc biệt này, mở ra một dấu mốc hiếm có trong lịch sử hợp tác truyền hình giữa hai nước.
Thế hệ nhà văn 1975 trong không gian văn học đương đại
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO