Lý luận - phê bình

Dòng chảy hiện sinh trong thơ hiện đại Việt Nam

Hương Giang 06:33 31/12/2024

Trong triết học phương Tây hiện đại, chủ nghĩa hiện sinh nổi bật như một cuộc đối thoại sâu sắc với thân phận con người, đặt ra những câu hỏi day dứt về sự tồn tại và mối quan hệ giữa cái hữu hạn - cái vô cùng.

background-book-sach-canh-hoa-dao.jpg

Mặc dù trải qua nhiều giai đoạn và có không ít biến thể khác nhau, nhưng chủ nghĩa hiện sinh luôn xoay quanh một vấn đề cốt lõi duy nhất: vấn đề nhân vị. Đó là triết học của sự lo âu, của những khắc khoải trước hư vô, nơi con người phải tự mình tìm ra ý nghĩa trong một thế giới đầy bất định. Chủ nghĩa hiện sinh là triết học về con người, về tự do, về sự tồn tại trong từng giây phút dằng dặc ấy. Nó tôn vinh sự độc đáo và tuyệt đối của cá nhân, đặt con người vào trung tâm của vũ trụ, với mọi nỗi lo lắng, tìm kiếm và khát khao. Chính vì vậy, triết lý này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn học, mở ra những chiều kích mới cho sáng tạo nghệ thuật, nhanh chóng thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu, với sự góp mặt của những tên tuổi tiên phong nổi bật như Heidegger, Sartre, Jaspers,...

Văn học Việt Nam không nằm ngoài quy luật giao lưu tiếp nhận. Đã có những cuộc gặp gỡ tiếp xúc mạnh mẽ với tư tưởng bút pháp mang khuynh hướng hiện sinh này. Trên thực tế, có thể khẳng định, trong nhiều thăng trầm biến động của thời gian lịch sử, dấu ấn hiện sinh đã luôn có mặt, chảy xuyên suốt trong thơ hiện đại Việt Nam. Chủ nghĩa hiện sinh, trong những thập niên 1960, đã trở thành một trào lưu sống động và phổ biến ở miền Nam, không chỉ trong đời sống thực tế mà còn thấm sâu vào văn học. Qua việc tiếp thu và thể hiện sinh động các nguyên lý của triết học hiện sinh, đã tạo dựng một không gian sáng tác riêng biệt, nơi bi kịch nhân sinh được phản ánh qua những trăn trở, lo âu và sự băn khoăn về phận người. Văn học hiện sinh trong giai đoạn này không chỉ phản ánh những nỗi bất an, sự đổ vỡ, mà còn thể hiện sự thức tỉnh về ý thức lựa chọn và thái độ sống đúng đắn. Nhờ vào việc sử dụng ngôn ngữ sắc bén và kỹ thuật mô tả hiện tượng luận, các tác phẩm này đã góp phần hình thành một dòng văn học hiện sinh với đặc trưng riêng biệt, mang đậm dấu ấn thời đại. Những nhà thơ tiêu biểu như Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Thị Hoàng, Bùi Giáng, Du Tử Lê, Nguyên Sa... đã thể hiện rõ nét những nỗi trăn trở này trong tác phẩm của mình.

Sau chiến tranh, đặc biệt từ khi Đổi mới vào năm 1986, đất nước trải qua những biến đổi sâu rộng, tác động mạnh mẽ đến tâm thức con người và ảnh hưởng đến sự phát triển của văn học. Những khái niệm về tính chủ thể, tự do, sự phi lý, cũng như về dấn thân nổi loạn trở nên hết sức phù hợp để giải thích và nhận diện con người trong giai đoạn này. Vì vậy, dấu ấn của hiện sinh vẫn còn vang vọng và tiếp tục thu hút sự quan tâm, mở rộng trong các hoạt động nghiên cứu cho đến ngày nay. Đặc biệt là bước ngoặt từ năm 1986, với sự bứt phá của tinh thần hiện sinh trong xã hội Việt Nam, nó trở nên rõ ràng và không thể tránh khỏi, như quy luật khách quan để thể hiện những suy tư cá nhân trong văn học và trong sáng tạo.

Cảm thức hiện sinh có thể được khám phá và thể hiện qua nhiều phạm trù khác nhau, trong đó nổi bật nhất là khía cạnh “nỗi cô đơn“ hiện sinh, một yếu tố trung tâm trong triết lý này. Trong thơ ca đương đại, ta bắt gặp Trương Đăng Dung với nỗi bất an trước hiện thực cuộc sống và sự suy tư về cõi chết, luôn ý thức về sự hữu hạn của đời người qua các tác phẩm “Những kỉ niệm tưởng tượng” và “Em là nơi anh tị nạn”; một Nguyễn Quang Thiều với cảm giác lạc lõng, tìm kiếm chính mình qua những chân trời mơ hồ trong “Sự mất ngủ của lửa” và “Những người đàn bà gánh nước sông”; hay một Mai Văn Phấn thể hiện nỗi cô đơn của con người trong một cuộc sống đầy rẫy mâu thuẫn và xung đột, khi bước vào hành trình tìm lại ký ức trong “Cầu nguyện ban mai”, “Nghi lễ nhận tên” và “Bầu trời không mái che”… Đây là những gương mặt thơ mang dấu ấn hiện sinh đậm nét cho thơ ca đương đại. Những mất mát tổn thất trong và sau chiến tranh đã thúc đẩy con người đi tìm lại chính mình, khát khao tự do, khám phá bản thể. Thơ ca trở thành phương tiện để thể hiện sự trăn trở, âu lo, và thức tỉnh về bản ngã, với khát vọng tìm lại cái tôi đích thực. Với những sáng tác ấy, chủ nghĩa hiện sinh trong văn học, thực chất, là sự phát triển tiếp theo của chủ nghĩa hiện thực phê phán, nhưng với một tinh thần tự nhiên, thẳng thắn và đôi khi gay gắt hơn, thậm chí có phần châm biếm, với mục đích “hạ bệ” những thần tượng và lý tưởng chính trị - xã hội, đưa chúng trở lại với bản chất đời sống thường nhật. Điều này đúng với câu cách ngôn mà Karl Marx ưa thích: “Không có gì thuộc về con người mà xa lạ đối với tôi”.

Trong công cuộc tìm kiếm thức tỉnh bản thể, thơ ca đã trở thành thể loại thích hợp nhất để khám phá chiều sâu phức tạp và bí ẩn của con người. Theo cố nhà giáo, nhà phê bình văn học Chu Văn Sơn “Cái tôi của thơ đương đại là cái tôi bản thể”. Các phạm trù cốt lõi của chủ nghĩa hiện sinh, như sự phi lý, thân phận cô đơn, lạc lõng trong hành trình tìm kiếm bản ngã, hay những con người nổi loạn, vượt ra ngoài chuẩn mực luân lý gắn liền với tình yêu và tình dục, đã được các nhà văn sử dụng một cách linh hoạt, sáng tạo và rộng rãi trong tác phẩm của mình. Còn nhà phê bình Trần Hoài Anh thì nhận định, khuynh hướng hiện sinh trong văn học Việt Nam hiện đại là sự tìm kiếm “cái tôi đã mất”, với nội dung chủ yếu là những suy tư về thân phận và khát khao tự nhận thức cá nhân. Khi con người nhận thức được sự phi lý của cuộc đời, họ càng cảm thấy cô đơn và khát khao vươn lên. Kết quả là, sau 1986, trên văn đàn hiện sinh không chỉ là những nhà thơ tóc bạc trăn trở suy tư mà một thế hệ nhà thơ trẻ đã xuất hiện, không ngại đổi mới và thể hiện những sự thật đôi khi trần trụi về thân phận con người. Những nhà thơ trẻ đương đại như Ly Hoàng Ly, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Nguyệt Phạm, Lê Minh Quốc, Đinh Thị Thu Vân, Nguyễn Hữu Hồng Minh,... với những nỗ lực khẳng định và gìn giữ bản ngã trong một thế giới đầy bất ổn và phi lý, đã như một dòng chảy hiện sinh mạnh mẽ phản ánh nỗi buồn, cô đơn, sự khủng hoảng và thiếu vắng niềm tin. Những chủ đề như cô đơn, bản thể, hư vô, dục tính… trở thành những đề tài trọng tâm trong thơ ca đương đại, đặc biệt là trong các tác phẩm của những nhà thơ trẻ. Sự thể hiện này đã mang lại một diện mạo mới cho thơ ca Việt Nam, đồng thời cũng phản ánh ảnh hưởng mạnh mẽ của trào lưu thơ hiện sinh trên thế giới.

Với ảnh hưởng của khuynh hướng hiện sinh, thơ ca tập trung khám phá số phận và tâm tư của con người trong những hoàn cảnh cụ thể, tạo cơ hội cho con người tự nhận thức bản thân và vượt qua những giới hạn ngột ngạt của sự đơn điệu, vô nghĩa, từ đó tìm kiếm ý nghĩa thực sự của cuộc sống. Có thể thấy, thời kỳ đổi mới đã tạo ra một môi trường thuận lợi để con người giải phóng cái tôi cá nhân và nhận thức lại đúng đắn về ý nghĩa, giá trị của nó. Con người được nhìn nhận một cách toàn diện hơn, với sự quan tâm không chỉ đến những nhu cầu đời sống vật chất mà còn đến các khía cạnh tâm linh, vô thức và đời tư.

Như vậy, việc xác định bản sắc của cái tôi mang tâm thức hiện sinh - với những trải nghiệm cô đơn cá nhân và bản thể - cùng quá trình vượt qua và chinh phục sự cô đơn, truy tìm bản thể của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam đương đại có ý nghĩa lớn để định vị và kiến tạo diện mạo thơ Việt Nam hiện đại. Bởi vậy, qua bao thăng trầm, khuynh hướng hiện sinh vẫn khẳng định được vị thế trong thơ ca và đời sống đương đại như một dòng chảy xuyên suốt và ngày càng mãnh liệt./.

Bài liên quan
  • “Bay qua Hồ Gươm” - trò chuyện cùng Hà Nội, về Hà Nội
    “Mơ là bồ câu trắng/ Bay qua Hồ Gươm xanh”, tác giả Huỳnh Mai Liên đã bật lên khao khát muốn được trở thành cánh chim nhẹ nhàng và tự do khám phá bầu trời Hà Nội ở cuối bài thơ Bay qua Hồ Gươm (cũng là tên tập thơ). Dường như cũng từ giấc mơ này, nhà thơ đã viết ra những vần thơ kể chuyện dẫn lối người đọc ngắm nhìn Hà Nội từ cao đến thấp, từ xa đến gần.
(0) Bình luận
  • Có một mùa thu vẫn còn thơ bé
    Khi những vạt nắng xanh non tháng Chín lung linh nhảy múa bên thềm nhà, bọn trẻ con đã bắt đầu vào năm học mới, lòng tôi lại rộn lên những cảm xúc bâng khuâng khó tả. Trong tâm trí, tôi thấy nhảy nhót những trang sách giáo khoa thời tiểu học, với hình ảnh con gà, con mèo, bắp cải, con trâu... lần lượt ùa về.
  • Để văn học Thủ đô tiếp tục khẳng định vị thế
    Song hành với thành tựu phát triển kinh tế, chính trị của Thủ đô 80 năm qua, Thành phố Hà Nội đang nỗ lực xây dựng hình ảnh một đô thị thanh lịch, văn minh, trong đó chiều sâu văn hóa được thể hiện qua các tác phẩm văn học nghệ thuật (VHNT) gắn bó với đời sống nhân dân Thủ đô. Nói riêng về diện mạo văn học, bên cạnh những thành tựu to lớn mà các nhà văn Hà Nội đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ thì các tác phẩm văn học có quy mô và chất lượng cao ở thời kỳ đổi mới vẫn còn thưa vắng, thậm chí mờ nhạt. Nhìn lại chặng đường sáng tạo văn chương của các nhà văn dưới mái nhà chung - Hội Nhà văn Hà Nội, đặc biệt trong 20 năm trở lại đây có thể thấy rõ điều đó.
  • Cảnh và tình trong thơ Nguyễn Trọng Nghĩa
    “Chuyện hàng rào có hoa” đã mở ra một viễn cảnh giữa bề bộn của cuộc sống nơi hàng rào đầy tĩnh lặng. Sự sống cấp tập, chen lấn. Nhưng trong chớp mắt, một khoảng không ùa ra, tua tủa những mầm tươi nõn ngỡ như từ một thế giới khác hiện hình, thẳm xa hừng lên. Thảng thốt trước màn ảnh sân khấu khổng lồ, ngần sáng, các cảnh sắc và các nhân vật chính diện cứ tự nhiên hoá tình, đánh thức kỷ niệm, tưởng như trong cổ tích bước tới.
  • Âm nhạc Thủ đô - 80 năm đồng hành cùng dân tộc
    Trong suốt chiều dài lịch sử, đặc biệt là 80 năm qua, văn học nghệ thuật Thủ đô luôn đồng hành cùng dân tộc trên mọi chặng đường lịch sử: từ những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám sục sôi khí thế, qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, đến công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước hiện nay. Trong bức tranh chung ấy, âm nhạc Thủ đô Hà Nội giữ một vai trò đặc biệt: vừa là tiếng nói của tâm hồn dân tộc nói chung, tiếng nói “Người Hà Nội” nói riêng, vừa là vũ khí tinh thần sắc bén thôi thúc từng đoàn quân ra trận để bảo vệ Thủ đô, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, dân tộc.
  • Nghệ sĩ Tây Phong: “Con đường diễn và ca như một mạch ngầm thôi thúc”
    Mái tóc dài, trang phục lụng thụng và luôn xuất hiện trước công chúng với những màn trình diễn độc, lạ… đó là hình ảnh quen thuộc của nghệ sĩ Tây Phong dù là trên sân khấu kịch nói hay trong những chương trình nghệ thuật biểu diễn sắp đặt âm nhạc đương đại kết hợp hội họa. Với anh, mỗi vở diễn hay trích đoạn sân khấu đều là một lần sáng tạo mới, nơi người nghệ sĩ được đối diện với nhân vật, được sống trong cùng không gian, thời gian.
  • Giá trị văn hóa bền vững của nền văn học cách mạng Việt Nam 1945 - 2025
    Vai trò to lớn và quyết định của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong sự nghiệp sáng lập nền văn học cách mạng Việt Nam đã được khẳng định nhất quán. Người là kiến trúc sư vĩ đại của nền văn học cách mạng Việt Nam có bề dày truyền thống tính từ những năm 20 thế kỷ XX, với những sáng tác văn xuôi bằng tiếng Pháp (xuất bản ở Pháp), đặt nền móng cho nền văn học cách mạng (về sau được tập hợp trong tác phẩm “Nguyễn Ái Quốc: Truyện và ký”, Phạm Huy Thông dịch và giới thiệu, NXB Văn học, 1974).
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Nhà văn Trần Thanh Cảnh: Khắc họa các anh hùng thời Trần qua tập sách lịch sử “Hùng khí Đông A”
    Nhà Xuất bản Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức lễ ra mắt tập sách “Hùng khí Đông A” - bản đặc biệt của nhà văn Trần Thanh Cảnh, khắc họa các anh hùng thời Trần. Tập sách cũng phát hành nhân dịp kỷ niệm 800 năm vương triều Trần lên ngôi (12/12 Ất Dậu, 1225 - 12/12 Ất Tỵ, 2025).
  • Khai mạc Lễ hội Văn hóa Thế giới Hà Nội lần thứ nhất
    Tối 10/10, Lễ hội Văn hóa Thế giới tại Hà Nội lần thứ nhất - năm 2025 chính thức khai mạc tại Trung tâm Di sản Hoàng thành Thăng Long - Di sản Văn hóa Thế giới được UNESCO công nhận. Sự kiện do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với Bộ Ngoại giao và Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội tổ chức.
  • 16 tác phẩm được trao giải thưởng Triển lãm Mỹ thuật Thủ đô năm 2025
    Triển lãm Mỹ thuật Thủ đô năm 2025 do Hội Mỹ thuật Hà Nội tổ chức vừa khai mạc tại Trung tâm Triển lãm văn hóa nghệ thuật Việt Nam (số 2 Hoa Lư, Vân Hồ, Hà Nội). Sự kiện diễn ra đúng dịp kỷ niệm 71 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954 – 10/10/2025), là hoạt động ý nghĩa, thiết thực của giới văn học nghệ thuật Thủ đô, đặc biệt là đội ngũ nghệ sĩ tạo hình.
  • Kỳ 4: Hà Nội tiến tới đô thị thông minh, điểm sáng trong quản lý, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường
    Thành phố Hà Nội luôn đặc biệt quan tâm quản lý, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, ứng phó với biến đổi khí hậu để góp phần xây dựng, phát triển Thủ đô trong giai đoạn phát triển mới mà điểm nhấn là Đại hội đại biểu lần thứ XVIII Đảng bộ Thành phố Hà Nội, nhiệm kỳ 2025 – 2030 đã đến gần. Trong chương trình hôm nay, xin mời quý vị và các bạn đến với nội dung Thủ đô Hà Nội đã thực hiện hiệu quả công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị theo hướng thông minh, xanh và bền vững.
  • Tiếp đà đổi mới phương thức lãnh đạo, Thủ đô Hà Nội vững bước tới kỷ nguyên vươn mình
    Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2025 – 2030 đang đến gần. Nhìn lại nhiệm kỳ 2020 - 2025, những kết quả nổi bật về đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nội chính; phòng, chống tiêu cực; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy Đảng của Hà Nội để thấy Thủ đô đã xây dựng nền tảng cho nhiệm kỳ 2025 – 2030, sẽ có thêm nhiều thành tựu hơn nữa.
Đừng bỏ lỡ
Dòng chảy hiện sinh trong thơ hiện đại Việt Nam
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO