Lý luận - phê bình

Thơ Lữ Hồng - vị buồn dưới một đồng cỏ thơm

Hương Giang 14:13 15/06/2025

Tình yêu trong thơ Lữ Hồng không ồn ào hay cháy lửa. Nó là thứ tình thì thầm, âm ỉ từ bên trong, càng đọc càng cảm nhận được sự đằm sâu, nồng nàn và chân thật. Đó không chỉ là cảm xúc của một cô gái trẻ lần đầu biết yêu mà là tâm hồn của người phụ nữ đã trải qua những mất mát thấu hiểu lặng im và khát vọng được yêu trọn vẹn.

tap-tho-_o-cua-van-sang-den_-cua-lu-hong-1-.jpg

Một mai thức dậy
Đi trọn kiếp người
Xin là thạch thảo
Tím hoài khôn nguôi.
(Một mai thức dậy)

Có những hồn thơ đến với đời như một làn hương nhẹ, không ồn ào, không giông bão nhưng đủ sức khiến người đọc dừng lại, lắng nghe và lay động mãi trong tâm tưởng. Lữ Hồng là một hồn thơ như thế - trong trẻo mà đằm sâu, dịu dàng mà gan ruột, mong manh mà kiên cường. Thơ cô là thứ ánh sáng dịu của buổi sớm, chiếu xuống cánh đồng ký ức, nơi những khát khao day dứt, những mộng mị yêu thương và chiêm nghiệm sinh tử cùng tồn tại. Với hành trình sống gần mười năm cùng căn bệnh ung thư, Lữ Hồng vẫn viết như một cách yêu đời đến tận cùng, gửi lại trong từng con chữ một niềm sống, một nỗi buồn trong vắt - “vị buồn dưới một đồng cỏ thơm”.

nha-tho-tre-lu-hong.jpg

Trong một lần chia sẻ về trách nhiệm và khát vọng của người làm thơ, Lữ Hồng từng tâm sự: “Tôi mong, rất mong bản thân sẽ nối dài niềm tin với thơ ca chân chính, dẫu đó có là những nỗi buồn đẹp mênh mang. Hy vọng mình đủ sức khỏe, đủ năng lượng và nguồn cảm hứng để viết được một bài thơ đậm đầy hơi thở của cuộc sống, không chỉ là đời sống rộn rã ngoài kia mà còn là đời sống bên trong mình, những gì thẳm nhất và thật nhất”. Có lẽ đó không chỉ là lời tự sự mà còn là tuyên ngôn thi ca của một tâm hồn thơ mộng giữa nghịch cảnh.

Tình yêu đằm thắm theo thời gian, nồng nàn trong im lặng

Tình yêu trong thơ Lữ Hồng không ồn ào hay cháy lửa. Nó là thứ tình thì thầm, âm ỉ từ bên trong, càng đọc càng cảm nhận được sự đằm sâu, nồng nàn và chân thật. Đó không chỉ là cảm xúc của một cô gái trẻ lần đầu biết yêu mà là tâm hồn của người phụ nữ đã trải qua những mất mát thấu hiểu lặng im và khát vọng được yêu trọn vẹn.

Trong bài thơ “Không tên”, Lữ Hồng viết:

Hơn một người đàn ông/ luồn tay vào kẽ tóc/ sao chiều nay gió mỏng/ em lại nhớ về anh.

Nỗi nhớ không gọi tên nhưng da diết như một bản nhạc không lời. Tình yêu trong cô không chỉ là những lần vụng dại, mà là những lần vượt qua vụng dại để vẫn tin, vẫn mơ: Hơn một lần anh hát/ thêm một lần em tin/ quên hết thế nhân tình/ đang chực ngày nổi bão.
Tình yêu ấy, đôi khi hóa thân thành ký ức: Phố không còn mùa nhớ/ Ký ức giờ bỏ hoang (Phố)

Phố - nơi yêu thương cũ tan vào thời gian, để lại khoảng trống thảng thốt trong lòng.

Và khi yêu thương không còn là hiện hữu, Lữ Hồng vẫn biết cách tiễn biệt bằng một sự an nhiên mà nghẹn ngào:

Em sẽ tiễn anh như thơ tiễn mùa thu/ như thể mình chưa từng có ngày vì nhau mà thở/ (...)/ ngày vén tóc thương anh là ngày nổi gió/ trời có xanh đâu mà bắt cỏ phải mềm. (Em sẽ tiễn anh như thơ tiễn mùa Thu)

tap-tho-_o-cua-van-sang-den_-cua-lu-hong.jpg

Và một nỗi đau tình yêu khác lặng lẽ hiện diện: Những nỗi đau cháy tàn/ anh trốn sau mùa lá buốt/ Ngày đi vào lòng phố/ ta đóng rêu trong mỗi ánh nhìn/ Sự hiện diện của mình chỉ làm chiều thêm vắng. (Thêm một lần phố vắng)

Ở đây, tình yêu là một nỗi thổn thức âm thầm, một hiện diện nhỏ nhoi giữa không gian rộng lớn của cô đơn. Thơ tình của Lữ Hồng không cần tuyên ngôn, nó chảy lặng nhưng khi đọc vào thì day dứt khôn nguôi. Day dứt mình, day dứt những quá khứ của mình, cái từng thuộc về mình, cháy tàn. Với cách sử dụng nhiều hình ảnh trữ tình gợi cảm, tiết chế ngôn từ mà gợi mở cảm xúc đã nhiều phần làm nên nét đẹp thầm lặng và bền vững trong thơ tình của cô.

Những bài thơ đượm vị tình yêu của Lữ Hồng luôn giàu cảm xúc nội tâm, thường mang dáng dấp của lời độc thoại. Chọn thơ tự do, có lẽ bởi lẽ đó, dễ trải lòng.

Sự dịu dàng của mẹ giữa mưa gió cuộc đời

Giữa miền cao nguyên khắc nghiệt, trong những năm tháng sống với căn bệnh quái ác, hình ảnh người mẹ trong thơ Lữ Hồng hiện lên như cội gốc của yên bình, nơi cô trở về để ủ mình vào những yêu thương không lời: À ơi/ tóc Mẹ bầm sương/ chái bếp lạnh đau/ ai mồ côi đốm lửa. (Một khúc à ơi)

Chỉ một đốm lửa nơi bếp lạnh cũng đủ để ta thấy cả một đời mẹ. Cái lạnh của đời, của bệnh tật, của mưa gió vùng cao như dịu lại bên bếp lửa mẹ nhen. Mẹ là hơi ấm, là người nhóm lên sự sống, là ánh sáng duy nhất giữa lạnh đau. Và cô, như bao đứa trẻ, sợ nhất là mồ côi “đốm lửa” ấy.

Mẹ trong thơ không chỉ là người sinh thành mà còn là gương mặt của ký ức, là nơi trú ngụ, là bóng hình thiêng liêng của thời thơ dại: Chạng vạng lòng Cha/ tinh mơ tiếng Mẹ/ tôi cọ mình nương náu/ bốn vách nhà thưng ván những ngày xưa. (Tự khúc)

Và cả trong giấc chiêm bao, mẹ vẫn là điểm tựa sâu kín nhất: Chiêm bao/ con về ủ mình trong tay Mẹ/ những đau đớn ân cần. (Mẹ và tháng Ba)

Thật lạ khi đau đớn lại được mô tả là “ân cần”. Có lẽ bởi trong vòng tay mẹ, mọi thứ dẫu có là đau, cũng mang tình yêu. Cái “ủ mình” ấy là hành động trở về bản nguyên, nơi sự sống bắt đầu và cả nơi sự sống được xoa dịu. Người mẹ hiện lên không mang âm thanh, không nhiều hình ảnh trực tả, nhưng lại là vầng sáng dịu dàng, ấm áp bao trùm lên đời sống của cô, là suối nguồn yêu thương thầm lặng.

Trong bài thơ “Phía trong thành phố”, hình ảnh mẹ tiếp tục là cội nguồn thổn thức giữa những chuyển động chật chội của đời sống đô thị: “bầu trời không còn ngôi sao chiếu mệnh đêm qua/ ta gõ mấy dòng cho buổi sớm đầu tiên/ như cổ tích rã rời tiếng chuông ngày hội/ không có gì là thật/ hơn nỗi tê cóng lúc mẹ trở về”. Đó là nơi của ký ức, của một lối nhỏ không tên, không đèn xanh đèn đỏ, không tiếng còi xe… chỉ có bước chân nỗi nhớ. Thành phố rộng lớn, nhưng trái tim người con vẫn khắc khoải một lối đi riêng dành cho tình mẹ. Và cũng chính nơi ấy, cô gửi gắm nỗi buồn nhân thế bằng thứ hình ảnh giản dị mà ám ảnh: “vì không đủ tuổi để hiểu về Mẹ và tiếng rao sương/ nên để rơi giọt thủy tinh màu đỏ”. Tiếng rao sương, tiếng rao lạnh, mơ hồ... tất cả đều được cô gom nhặt, chắp vá bằng thơ, như người con âm thầm vá lại chiếc áo cũ mẹ từng mặc. “Giọt thủy tinh màu đỏ” là một hình ảnh vừa đẹp, vừa đau. Đó là giọt nước mắt lặng, trong veo, đẫm máu. Cô hiểu rằng mình chưa từng hiểu mẹ đủ, chưa từng sống thay mẹ đủ, chưa từng nắm được cái rét mẹ chịu, cái “tiếng rao ba mươi năm nghe vẫn lạ” ấy nhưng mẹ không ở đâu xa, mẹ trú ngụ trong thơ và trong từng bước chân, từng ánh mắt, từng dòng ký ức cô, để một người con có thể “rúc mình” lại trước, trong và sau những lần đổ vỡ.

Đối thoại với thơ bằng những tâm tư rụi cháy

Nếu những bài thơ tình của Lữ Hồng âm ỉ một niềm yêu, những bài thơ viết về mẹ như dòng nước mát lành chảy ngược về nguồn thì phần sâu thẳm nhất trong thơ cô lại là những cuộc độc thoại âm thầm giữa bản thể và số phận. Ở đó, Lữ Hồng không chỉ là thi sĩ, cô còn là nhân vật trữ tình đầy cô độc, soi chiếu chính mình trong gương soi của thi ca, như một kẻ hành hương tìm về ánh sáng bằng con đường của lửa - thứ lửa rụi cháy và thanh lọc linh hồn.

Trong bài “Một mùa xuân nữa lại rời đi nhân lúc ta nằm ngủ”, Lữ Hồng viết: Ai đốt lò trong đêm/ cho khói ngả say say vàng men cũ/ một mùa xuân nữa lại rời đi nhân lúc ta nằm ngủ/ bỗng khát trăng như thi sĩ khát cô đơn

Từng câu chữ trong thơ Lữ Hồng như một lời thổ lộ với chính mình. Cô không chỉ tạo ra những hình ảnh tuyệt đẹp mà còn đặt những câu hỏi về đời sống, về sự tồn tại, về những cảm xúc mãnh liệt không thể bày tỏ bằng lời. Đó là một cuộc đấu tranh nội tâm, khi cái đẹp và nỗi cô đơn hòa quyện, khi thơ ca là cứu rỗi cho linh hồn con người. Đêm chữ nghĩa trụi trần/ bài thơ xoàng tôi không bán được/ mọt gỗ từng câu (Tự khúc)

“Trụi trần”, “xoàng”, “mọt gỗ”... những từ ngữ như đang tự phủ định mình nhưng kỳ thực đó là tiếng nói của chân thành, của dũng cảm. Cô không tô vẽ thơ mình vì cô đang sống trong nó: ta kín kẽ cười/ trong những góc vuông không lối thoát (Viết trong chiều gió rít đuổi mưa)

Cái “cười” ấy không phải niềm vui mà là sự chịu đựng. “Những góc vuông không lối thoát” là hình ảnh rõ ràng nhất cho sự tù túng nội tâm. Cô viết thơ để lặng im mà nói, để trong “góc vuông” tự cất lời. Vậy mà vẫn tìm được một lối đi thật can đảm trong chữ nghĩa: thôi thì viết một câu thơ làm chứng/ rằng ta đã tự mềm môi (Một mùa xuân nữa lại rời đi nhân lúc ta nằm ngủ). Câu thơ không cần tuyên ngôn. Nó chỉ là “làm chứng” - chứng rằng cô đã sống thật, yêu thật, đau thật, và biết tự “mềm môi” - tự tha thứ, tự dịu đi, tự làm lành với mình để mở ra những cơ hội: Tôi thổi tắt nến để ước mơ được sáng hơn/ ước mơ là những câu hỏi nối dài trong giấc ngủ/ trang thơ còn nguyên vẹn/ tôi đã mất điều gì (Thì thầm)

Bóng tối không giết được ước mơ. Thậm chí, tắt nến đi, ước mơ có khi còn sáng hơn bởi nó đến từ sâu thẳm của lòng. Nhưng nỗi day dứt lại nằm ở chỗ: “trang thơ còn nguyên vẹn” - mà “tôi đã mất điều gì”? Đó là nỗi hoài nghi đầy chất thơ và cũng đầy sự thật.

Thơ Lữ Hồng là những cuộc đối thoại liên tục với chính mình và với thế giới. Mỗi câu thơ là một bản trường ca của sự sống và cái chết, của nỗi đau và hy vọng. Những bài thơ của cô luôn ngập tràn cảm xúc và là sự thăng hoa của một tâm hồn thanh khiết, mạnh mẽ. Bởi vậy càng đọc thơ Lữ Hồng, người ta càng nhận ra: trong cô, thơ không phải là điều đến sau cuộc đời mà là một phần của nó như hơi thở, như vết thương, ánh mắt.

Giữa bao âm vang thi ca hôm nay, thơ Lữ Hồng không ồn ào nhưng lưu dấu sâu, không rực rỡ nhưng dài lâu như hương thạch thảo - một vị buồn dưới một đồng cỏ thơm, khiến người ta mỗi lần đọc lại đều muốn cúi đầu, lắng nghe và nhớ mãi./.

Bài liên quan
  • Tình đất đai xứ sở ngả bóng trong văn chương
    Ngày 20/7/1954, Hiệp định Genève được ký kết, nước ta tạm thời chia cắt làm hai miền và 21 năm sau (năm 1975) mới tái thống nhất. Tình cảm ấy ngả bóng vào văn chương tạo nên một không gian cảm xúc trùng điệp nỗi nhớ thương đất đai sông núi, chưa từng có trong tiến trình văn chương nước nhà, cả văn xuôi lẫn thơ.
(0) Bình luận
  • Ngô Thanh Vân, vẻ đẹp kỳ diệu của nỗi buồn
    Người xưa rất coi trọng phần nội tâm (tình) trong thơ. Không có văn bản văn học nào thể hiện cái tôi cá nhân rõ như thơ. Nói như nhà văn Trịnh Bích Ngân: “Thơ không chịu được sự che đậy... Dũng cảm phơi bày. Chân thành phơi bày”.
  • Thao thức với phần đời chiến trận
    Có thể nói cuộc kháng chiến trường kỳ hào hùng và bi tráng của dân tộc, ở bất kỳ trạng huống nào dường như đã chi phối và tạo động lực cho đội ngũ văn nghệ sĩ, những người cầm bút suy nghĩ và sáng tạo. Ta hiểu vì sao ngay trong cuộc sống thời bình, trong đời sống dân sự, những hình ảnh của ngày hôm qua vẫn khiến con người luôn “thao thức với phần đời chiến trận”.
  • Phát huy vai trò của văn nghệ sĩ Thủ đô trong phát triển công nghiệp văn hóa
    Hà Nội - Thủ đô tự nhiên của lưu vực sông Hồng, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước từ ngàn xưa đã là nơi hội tụ và đào luyện nhân tài. Phần lớn danh nhân Việt Nam từng sống, làm việc, sáng tạo ở Thăng Long - Hà Nội, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc. Ở mảnh đất hội tụ tinh hoa văn hóa bốn phương ấy, con người Thăng Long mang trong mình nét tài hoa, đa tài, đa nghệ, thấm đẫm bản sắc trí tuệ và tinh thần sáng tạo. Trong đó, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ - những người sinh ra, lớn lên hoặc gắn bó với Hà Nội đã góp phần tạo nên diện mạo văn hóa, nghệ thuật Thủ đô bằng nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, khẳng định sức sống trường tồn của văn hóa nghìn năm. Họ chính là nguồn lực đặc biệt không thể thiếu trong hành trình phát triển công nghiệp văn hóa của Hà Nội hôm nay.
  • Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong bối cảnh hội nhập
    Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết của các cấp, các ngành mà còn là sứ mệnh đặc biệt của đội ngũ văn nghệ sĩ Thủ đô. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, việc xác định rõ những trọng tâm trong xây dựng hệ giá trị văn hóa là hết sức cần thiết.
  • Những lưu dấu văn hóa về Hà Nội qua ngôn từ văn chương
    Ngay từ nền văn học Việt Nam trung đại, những trước tác về miền đất thiêng (đất thánh) Đông Đô - Thăng Long - Hà Nội đã được ghi khắc trong sử văn: “Chiếu dời đô” (thế kỷ XI) của Lý Công Uẩn, “Thượng kinh ký sự” (thế kỷ XVIII) của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, “Vũ trung tùy bút” (thế kỷ XIX) của Phạm Đình Hổ, “Long Thành cầm giả ca” (thế kỷ XIX) của Nguyễn Du, “Thăng Long thành hoài cổ” (thế kỷ XIX) của Bà Huyện Thanh Quan.
  • Hai thể thơ mới namkau và 1-2-3 trong lịch sử phát triển của các thể thơ dân tộc
    Khoảng mươi năm gần đây, trên thi đàn Việt xuất hiện hai thể thơ mới: namkau và 1-2-3. Là sản phẩm của thế kỷ công nghệ số, những thể thơ này còn đang ở thời kỳ phôi thai trứng nước.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Nhìn lại hành trình ba thập kỷ của “Kính vạn hoa”
    Nhân dịp kỷ niệm 30 năm ra đời bộ sách “Kính vạn hoa” (1995-2025), vào sáng ngày 20/12/2025, tại Nhà Thiếu nhi TP. Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Kim Đồng sẽ tổ chức chương trình giao lưu, ký tặng và trao giải cuộc thi viết và vlog “Kính Vạn Hoa mở ra thế giới…” nhằm tôn vinh một trong những bộ sách kinh điển của văn học thiếu nhi Việt Nam, đồng thời tri ân các thế hệ bạn đọc đã lớn lên cùng tác phẩm.
  • Cuốn sách dành cho cha mẹ của những đứa trẻ ghét viết
    Trong ký ức của không ít người trưởng thành, viết từng là một áp lực kéo dài suốt những năm tháng đi học: sợ sai chính tả, sợ bị chấm điểm thấp, sợ viết không đúng ý thầy cô. Nỗi sợ ấy, theo Julie Bogart (tác giả cuốn sách) không chỉ tồn tại ở trẻ em mà còn in hằn trong người lớn. Thực tế đó đã thôi thúc bà viết “Cuốn sách dành cho cha mẹ của những đứa trẻ ghét viết” như một lời mời gọi các bậc phụ huynh thay đổi cách nhìn nhận và đồng hành cùng việc viết của trẻ em. Cuốn sách do Nhà xuất bản Thế giới và Công ty Cổ phần Xuất bản & Dữ liệu ETS liên kết xuất bản, vừa ra mắt bạn đọc.
  • Tôn vinh danh họa Tô Ngọc Vân qua trưng bày chuyên đề đặc biệt
    Nhân kỷ niệm 100 năm Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (1925-2025), Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam ra mắt Không gian trưng bày chuyên đề đặc biệt, tôn vinh những tác giả và tác phẩm tiêu biểu của mỹ thuật Việt Nam. Trong khuôn khổ ra mắt, lần đầu tiên công chúng được tiếp cận một chuyên đề riêng về họa sĩ, liệt sĩ Tô Ngọc Vân - một trong những danh họa tiêu biểu của nền mỹ thuật hiện đại và mỹ thuật cách mạng Việt Nam. Sự kiện sẽ được tổ chức tại Bảo tàng vào sáng ngày 18/12/2025.
  • Xã Phù Đổng đẩy mạnh, đa dạng hình thức tuyên truyền chào mừng Đại hội XIV của Đảng
    Thông tin từ UBND xã Phù Đổng (TP. Hà Nội) cho biết, chính quyền xã vừa ban hành kế hoạch thực hiện công tác thông tin tuyên truyền, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, trang trí, cổ động trực quan chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng (Đại hội XIV). Công tác tuyên truyền được thực hiện trước, trong và sau Đại hội XIV của Đảng.
  • Phường Hai Bà Trưng: Tổng kết công tác Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội năm 2025
    Ngày 17/12, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam phường Hai Bà Trưng tổ chức Hội nghị tổng kết công tác MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội phường năm 2025, phát động thi đua công tác năm 2026.
Đừng bỏ lỡ
Thơ Lữ Hồng - vị buồn dưới một đồng cỏ thơm
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO