Thơ Lữ Hồng - vị buồn dưới một đồng cỏ thơm
Tình yêu trong thơ Lữ Hồng không ồn ào hay cháy lửa. Nó là thứ tình thì thầm, âm ỉ từ bên trong, càng đọc càng cảm nhận được sự đằm sâu, nồng nàn và chân thật. Đó không chỉ là cảm xúc của một cô gái trẻ lần đầu biết yêu mà là tâm hồn của người phụ nữ đã trải qua những mất mát thấu hiểu lặng im và khát vọng được yêu trọn vẹn.

Một mai thức dậy
Đi trọn kiếp người
Xin là thạch thảo
Tím hoài khôn nguôi.
(Một mai thức dậy)
Có những hồn thơ đến với đời như một làn hương nhẹ, không ồn ào, không giông bão nhưng đủ sức khiến người đọc dừng lại, lắng nghe và lay động mãi trong tâm tưởng. Lữ Hồng là một hồn thơ như thế - trong trẻo mà đằm sâu, dịu dàng mà gan ruột, mong manh mà kiên cường. Thơ cô là thứ ánh sáng dịu của buổi sớm, chiếu xuống cánh đồng ký ức, nơi những khát khao day dứt, những mộng mị yêu thương và chiêm nghiệm sinh tử cùng tồn tại. Với hành trình sống gần mười năm cùng căn bệnh ung thư, Lữ Hồng vẫn viết như một cách yêu đời đến tận cùng, gửi lại trong từng con chữ một niềm sống, một nỗi buồn trong vắt - “vị buồn dưới một đồng cỏ thơm”.

Trong một lần chia sẻ về trách nhiệm và khát vọng của người làm thơ, Lữ Hồng từng tâm sự: “Tôi mong, rất mong bản thân sẽ nối dài niềm tin với thơ ca chân chính, dẫu đó có là những nỗi buồn đẹp mênh mang. Hy vọng mình đủ sức khỏe, đủ năng lượng và nguồn cảm hứng để viết được một bài thơ đậm đầy hơi thở của cuộc sống, không chỉ là đời sống rộn rã ngoài kia mà còn là đời sống bên trong mình, những gì thẳm nhất và thật nhất”. Có lẽ đó không chỉ là lời tự sự mà còn là tuyên ngôn thi ca của một tâm hồn thơ mộng giữa nghịch cảnh.
Tình yêu đằm thắm theo thời gian, nồng nàn trong im lặng
Tình yêu trong thơ Lữ Hồng không ồn ào hay cháy lửa. Nó là thứ tình thì thầm, âm ỉ từ bên trong, càng đọc càng cảm nhận được sự đằm sâu, nồng nàn và chân thật. Đó không chỉ là cảm xúc của một cô gái trẻ lần đầu biết yêu mà là tâm hồn của người phụ nữ đã trải qua những mất mát thấu hiểu lặng im và khát vọng được yêu trọn vẹn.
Trong bài thơ “Không tên”, Lữ Hồng viết:
Hơn một người đàn ông/ luồn tay vào kẽ tóc/ sao chiều nay gió mỏng/ em lại nhớ về anh.
Nỗi nhớ không gọi tên nhưng da diết như một bản nhạc không lời. Tình yêu trong cô không chỉ là những lần vụng dại, mà là những lần vượt qua vụng dại để vẫn tin, vẫn mơ: Hơn một lần anh hát/ thêm một lần em tin/ quên hết thế nhân tình/ đang chực ngày nổi bão.
Tình yêu ấy, đôi khi hóa thân thành ký ức: Phố không còn mùa nhớ/ Ký ức giờ bỏ hoang (Phố)
Phố - nơi yêu thương cũ tan vào thời gian, để lại khoảng trống thảng thốt trong lòng.
Và khi yêu thương không còn là hiện hữu, Lữ Hồng vẫn biết cách tiễn biệt bằng một sự an nhiên mà nghẹn ngào:
Em sẽ tiễn anh như thơ tiễn mùa thu/ như thể mình chưa từng có ngày vì nhau mà thở/ (...)/ ngày vén tóc thương anh là ngày nổi gió/ trời có xanh đâu mà bắt cỏ phải mềm. (Em sẽ tiễn anh như thơ tiễn mùa Thu)

Và một nỗi đau tình yêu khác lặng lẽ hiện diện: Những nỗi đau cháy tàn/ anh trốn sau mùa lá buốt/ Ngày đi vào lòng phố/ ta đóng rêu trong mỗi ánh nhìn/ Sự hiện diện của mình chỉ làm chiều thêm vắng. (Thêm một lần phố vắng)
Ở đây, tình yêu là một nỗi thổn thức âm thầm, một hiện diện nhỏ nhoi giữa không gian rộng lớn của cô đơn. Thơ tình của Lữ Hồng không cần tuyên ngôn, nó chảy lặng nhưng khi đọc vào thì day dứt khôn nguôi. Day dứt mình, day dứt những quá khứ của mình, cái từng thuộc về mình, cháy tàn. Với cách sử dụng nhiều hình ảnh trữ tình gợi cảm, tiết chế ngôn từ mà gợi mở cảm xúc đã nhiều phần làm nên nét đẹp thầm lặng và bền vững trong thơ tình của cô.
Những bài thơ đượm vị tình yêu của Lữ Hồng luôn giàu cảm xúc nội tâm, thường mang dáng dấp của lời độc thoại. Chọn thơ tự do, có lẽ bởi lẽ đó, dễ trải lòng.
Sự dịu dàng của mẹ giữa mưa gió cuộc đời
Giữa miền cao nguyên khắc nghiệt, trong những năm tháng sống với căn bệnh quái ác, hình ảnh người mẹ trong thơ Lữ Hồng hiện lên như cội gốc của yên bình, nơi cô trở về để ủ mình vào những yêu thương không lời: À ơi/ tóc Mẹ bầm sương/ chái bếp lạnh đau/ ai mồ côi đốm lửa. (Một khúc à ơi)
Chỉ một đốm lửa nơi bếp lạnh cũng đủ để ta thấy cả một đời mẹ. Cái lạnh của đời, của bệnh tật, của mưa gió vùng cao như dịu lại bên bếp lửa mẹ nhen. Mẹ là hơi ấm, là người nhóm lên sự sống, là ánh sáng duy nhất giữa lạnh đau. Và cô, như bao đứa trẻ, sợ nhất là mồ côi “đốm lửa” ấy.
Mẹ trong thơ không chỉ là người sinh thành mà còn là gương mặt của ký ức, là nơi trú ngụ, là bóng hình thiêng liêng của thời thơ dại: Chạng vạng lòng Cha/ tinh mơ tiếng Mẹ/ tôi cọ mình nương náu/ bốn vách nhà thưng ván những ngày xưa. (Tự khúc)
Và cả trong giấc chiêm bao, mẹ vẫn là điểm tựa sâu kín nhất: Chiêm bao/ con về ủ mình trong tay Mẹ/ những đau đớn ân cần. (Mẹ và tháng Ba)
Thật lạ khi đau đớn lại được mô tả là “ân cần”. Có lẽ bởi trong vòng tay mẹ, mọi thứ dẫu có là đau, cũng mang tình yêu. Cái “ủ mình” ấy là hành động trở về bản nguyên, nơi sự sống bắt đầu và cả nơi sự sống được xoa dịu. Người mẹ hiện lên không mang âm thanh, không nhiều hình ảnh trực tả, nhưng lại là vầng sáng dịu dàng, ấm áp bao trùm lên đời sống của cô, là suối nguồn yêu thương thầm lặng.
Trong bài thơ “Phía trong thành phố”, hình ảnh mẹ tiếp tục là cội nguồn thổn thức giữa những chuyển động chật chội của đời sống đô thị: “bầu trời không còn ngôi sao chiếu mệnh đêm qua/ ta gõ mấy dòng cho buổi sớm đầu tiên/ như cổ tích rã rời tiếng chuông ngày hội/ không có gì là thật/ hơn nỗi tê cóng lúc mẹ trở về”. Đó là nơi của ký ức, của một lối nhỏ không tên, không đèn xanh đèn đỏ, không tiếng còi xe… chỉ có bước chân nỗi nhớ. Thành phố rộng lớn, nhưng trái tim người con vẫn khắc khoải một lối đi riêng dành cho tình mẹ. Và cũng chính nơi ấy, cô gửi gắm nỗi buồn nhân thế bằng thứ hình ảnh giản dị mà ám ảnh: “vì không đủ tuổi để hiểu về Mẹ và tiếng rao sương/ nên để rơi giọt thủy tinh màu đỏ”. Tiếng rao sương, tiếng rao lạnh, mơ hồ... tất cả đều được cô gom nhặt, chắp vá bằng thơ, như người con âm thầm vá lại chiếc áo cũ mẹ từng mặc. “Giọt thủy tinh màu đỏ” là một hình ảnh vừa đẹp, vừa đau. Đó là giọt nước mắt lặng, trong veo, đẫm máu. Cô hiểu rằng mình chưa từng hiểu mẹ đủ, chưa từng sống thay mẹ đủ, chưa từng nắm được cái rét mẹ chịu, cái “tiếng rao ba mươi năm nghe vẫn lạ” ấy nhưng mẹ không ở đâu xa, mẹ trú ngụ trong thơ và trong từng bước chân, từng ánh mắt, từng dòng ký ức cô, để một người con có thể “rúc mình” lại trước, trong và sau những lần đổ vỡ.
Đối thoại với thơ bằng những tâm tư rụi cháy
Nếu những bài thơ tình của Lữ Hồng âm ỉ một niềm yêu, những bài thơ viết về mẹ như dòng nước mát lành chảy ngược về nguồn thì phần sâu thẳm nhất trong thơ cô lại là những cuộc độc thoại âm thầm giữa bản thể và số phận. Ở đó, Lữ Hồng không chỉ là thi sĩ, cô còn là nhân vật trữ tình đầy cô độc, soi chiếu chính mình trong gương soi của thi ca, như một kẻ hành hương tìm về ánh sáng bằng con đường của lửa - thứ lửa rụi cháy và thanh lọc linh hồn.
Trong bài “Một mùa xuân nữa lại rời đi nhân lúc ta nằm ngủ”, Lữ Hồng viết: Ai đốt lò trong đêm/ cho khói ngả say say vàng men cũ/ một mùa xuân nữa lại rời đi nhân lúc ta nằm ngủ/ bỗng khát trăng như thi sĩ khát cô đơn
Từng câu chữ trong thơ Lữ Hồng như một lời thổ lộ với chính mình. Cô không chỉ tạo ra những hình ảnh tuyệt đẹp mà còn đặt những câu hỏi về đời sống, về sự tồn tại, về những cảm xúc mãnh liệt không thể bày tỏ bằng lời. Đó là một cuộc đấu tranh nội tâm, khi cái đẹp và nỗi cô đơn hòa quyện, khi thơ ca là cứu rỗi cho linh hồn con người. Đêm chữ nghĩa trụi trần/ bài thơ xoàng tôi không bán được/ mọt gỗ từng câu (Tự khúc)
“Trụi trần”, “xoàng”, “mọt gỗ”... những từ ngữ như đang tự phủ định mình nhưng kỳ thực đó là tiếng nói của chân thành, của dũng cảm. Cô không tô vẽ thơ mình vì cô đang sống trong nó: ta kín kẽ cười/ trong những góc vuông không lối thoát (Viết trong chiều gió rít đuổi mưa)
Cái “cười” ấy không phải niềm vui mà là sự chịu đựng. “Những góc vuông không lối thoát” là hình ảnh rõ ràng nhất cho sự tù túng nội tâm. Cô viết thơ để lặng im mà nói, để trong “góc vuông” tự cất lời. Vậy mà vẫn tìm được một lối đi thật can đảm trong chữ nghĩa: thôi thì viết một câu thơ làm chứng/ rằng ta đã tự mềm môi (Một mùa xuân nữa lại rời đi nhân lúc ta nằm ngủ). Câu thơ không cần tuyên ngôn. Nó chỉ là “làm chứng” - chứng rằng cô đã sống thật, yêu thật, đau thật, và biết tự “mềm môi” - tự tha thứ, tự dịu đi, tự làm lành với mình để mở ra những cơ hội: Tôi thổi tắt nến để ước mơ được sáng hơn/ ước mơ là những câu hỏi nối dài trong giấc ngủ/ trang thơ còn nguyên vẹn/ tôi đã mất điều gì (Thì thầm)
Bóng tối không giết được ước mơ. Thậm chí, tắt nến đi, ước mơ có khi còn sáng hơn bởi nó đến từ sâu thẳm của lòng. Nhưng nỗi day dứt lại nằm ở chỗ: “trang thơ còn nguyên vẹn” - mà “tôi đã mất điều gì”? Đó là nỗi hoài nghi đầy chất thơ và cũng đầy sự thật.
Thơ Lữ Hồng là những cuộc đối thoại liên tục với chính mình và với thế giới. Mỗi câu thơ là một bản trường ca của sự sống và cái chết, của nỗi đau và hy vọng. Những bài thơ của cô luôn ngập tràn cảm xúc và là sự thăng hoa của một tâm hồn thanh khiết, mạnh mẽ. Bởi vậy càng đọc thơ Lữ Hồng, người ta càng nhận ra: trong cô, thơ không phải là điều đến sau cuộc đời mà là một phần của nó như hơi thở, như vết thương, ánh mắt.
Giữa bao âm vang thi ca hôm nay, thơ Lữ Hồng không ồn ào nhưng lưu dấu sâu, không rực rỡ nhưng dài lâu như hương thạch thảo - một vị buồn dưới một đồng cỏ thơm, khiến người ta mỗi lần đọc lại đều muốn cúi đầu, lắng nghe và nhớ mãi./.