Lý luận - phê bình

Cây bút nữ với đề tài chiến tranh

Hương Thủy 08:51 11/03/2025

Trong lịch sử văn học, khi đề cập đến đề tài chiến tranh, phần lớn những gương mặt được ghi dấu trên văn đàn thường là nam giới.

Thực tế này dường như đúng với giai đoạn trước đây, đặc biệt là trong thời kỳ phong kiến khi hệ quy chiếu và những quy định hà khắc của chế độ cũ gần như không cho phép người nữ bộc lộ tiếng nói cá nhân trong đời sống văn chương nghệ thuật. Tuy nhiên, một vài thập niên trước 1975, tình hình đã có những đổi khác khi trên thực tế, nhiều phụ nữ (dù tỉ lệ còn rất khiêm tốn so với nam giới) đã trực tiếp tham chiến.

bia-sach-1..jpg

Một số cây bút nữ ở thời kỳ này cũng đã có tác phẩm thể hiện những góc nhìn về một khu vực trước nay chưa dành được sự quan tâm của nhiều người viết. Thời kỳ hậu chiến, nhất là từ sau 1986, cùng với làn sóng văn học nữ, sáng tác của các cây bút nữ đã cho thấy nhiều vấn đề đáng quan tâm, đồng thời thể hiện những sắc thái riêng biệt của chủ thể sáng tạo.

bia-sach-2.jpg

Với các cây bút nữ, chiến tranh tưởng như là chủ đề không thuộc đối tượng thẩm mĩ thu hút sự quan tâm của họ, tuy nhiên trên thực tế, từ sau 1975 nhiều cây bút đã khai thác chủ đề này. Đáng chú ý, chiến tranh trong những sáng tác của họ mở ra những vấn đề thuộc về vùng thẩm mĩ đặc trưng với những cảm nghiệm lí thú. Trong lịch sử, phụ nữ đã tham dự vào chiến tranh theo những cách khác nhau. Không gian hiện thực này cũng đã phản chiếu những đặc điểm đặc thù của chủ thể sáng tạo. Nhiều nhà văn nữ dù từng tham chiến hay không đã có những sáng tác khai thác đề tài này tao được ấn tượng sâu sắc với người đọc.

bia-sach-3a.jpg

Từ thực tiễn sáng tác của người viết nữ, có thể thấy chiến tranh không phải là đề tài thường xuyên mà họ theo đuổi. Những năm cuối của thập kỷ 80 và trong suốt thập kỷ 90 của thế kỉ XX, các nhà văn nữ đã làm nóng văn đàn bởi sự xuất hiện đông đảo cùng nhiều tác phẩm gây được sự chú ý của dư luận, tạo được hiệu ứng tích cực trong đời sống sáng tác và phê bình văn học. Thời kỳ này, tác phẩm của họ vẫn thường xoay quanh chủ đề về hôn nhân và tình yêu, những xung đột giữa gia đình, công việc và “bổn phận” của người phụ nữ, sự bất toàn trong những cuộc hôn nhân cũng như khát vọng hạnh phúc. Đây là điều dễ hiểu bởi sau chiến tranh, trở về với cuộc sống đời thường, vấn đề mà người phụ nữ quan tâm nhất chính là các mối quan hệ trong gia đình và xã hội cùng những cách thức giải quyết xung đột cá nhân.

Trong vài thập kỷ gần đây, cùng với sự thay đổi trong đời sống, ý thức về con người và vị thế cá nhân, nhiều tác giả nữ đã thoát được những định kiến trong việc lựa chọn đề tài và cách tiếp cận hiện thực. Dù chiến tranh không phải là đề tài chủ đạo trong văn học nữ nhưng các tác phẩm về chiến tranh vẫn mang đến những góc nhìn độc đáo, qua đó có thể soi chiếu nhiều vấn đề của đời sống, thể hiện tiếng nói và ý thức công dân mạnh mẽ đồng thời cho thấy điểm nhìn nghệ thuật độc đáo của các cây bút nữ.

Trong số các nhà văn nữ viết về chiến tranh, có những người trưởng thành hoặc bước ra từ cuộc chiến như Lê Minh Khuê, Dạ Ngân, Bích Ngân, Lý Lan... Bên cạnh đó cũng có những cây bút trưởng thành trong thời bình như Trần Thanh Hà, Đỗ Bích Thúy, Phong Điệp....

Truyện ngắn viết về chiến tranh của các cây bút nữ không chỉ là một cách thức tham dự vào đời sống văn học, mà còn thể hiện cái nhìn của người viết trước những vấn đề của chiến tranh và hậu chiến. Đồng thời cũng có những biểu hiện cho thấy sự khác biệt thế hệ trong cách nhìn về chiến tranh của các cây bút nữ (các cây bút trưởng thành trong chiến tranh, tham dự vào cuộc chiến tranh; các cây bút sinh ra và lớn lên sau chiến tranh, chiến tranh từ cái nhìn của người viết nữ trẻ).

Văn học hậu chiến ghi nhận nhiều sáng tác thành công của các nhà văn nam giới với mật độ sáng tác dày hơn và sự đa dạng trong cách thể hiện. Trong khi đó, các cây bút nữ tiếp cận đề tài này theo một hướng riêng. Họ ít khi tập trung tái hiện các trận đánh mà thiên về khai thác những câu chuyện thời kỳ hậu chiến như sự chia xa trong chiến tranh, nỗi đau của người mẹ mất con, niềm khắc khoải đợi chờ của những người phụ nữ khi có người thân ra chiến trận trong đó nhiều người đã vĩnh viễn không trở về. Từ góc nhìn giới có thể thấy sự khác biệt trong kinh nghiệm đời sống và vùng thẩm mĩ đã tạo nên cách phản ánh chiến tranh khác nhau trên trang viết.

Phụ nữ thường quan sát và thể hiện đời sống từ nỗi đau thân phận, nỗi đau đàn bà. Những khắc khoải và khát khao bản năng mang sắc thái giới tính trong những thời khắc, hoàn cảnh chiến tranh dễ được tác giả nữ đi sâu khai thác. Ví như Võ Thị Xuân Hà với “Đàn sẻ ri bay ngang rừng”, Võ Thị Hảo với “Người sót lại của rừng cười”, Dạ Ngân với “Trên mái nhà người phụ nữ”. Khi viết viết về chiến tranh, các nhà văn nữ không chỉ khắc họa thân phận phụ nữ cùng những góc khuất của tâm hồn của họ, soi tỏ nhiều phương diện của chiến tranh mà còn góp phần làm đầy đủ thêm một diện mạo văn học hậu chiến.

Trong những khắc họa về chiến tranh, các nhà văn nữ dành nhiều sự chú ý đến những biểu hiện bản thể giới tính của người nữ. Chẳng hạn, Lê Minh Khuê luôn chú trọng miêu tả mái tóc của người phụ nữ với những hành vi gìn giữ và chăm sóc. Trong truyện ngắn “Anh kĩ sư dạo trước”, Lê Minh Khuê đã chú ý đến hình ảnh và niềm mong ước giản dị của các cô gái tuổi đương thì trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh: “... những lúc đó muốn tắm một cái bằng nước lá hương nhu. Muốn gội cái đầu đầy những đất mà mồ hôi đang bết lại như chui vào rừng quả ké (...) tóc xõa mảnh dẻ sau lưng, đội cái nón mỏng, quai xanh nhạt...” (Lê Minh Khuê, “Những dòng sông buổi chiều cơn mưa”, Nxb Phụ nữ, 2003). Trong truyện ngắn “Người sót lại của rừng cười”, Võ Thị Hảo chú ý khai thác là nỗi cô đơn, khát khao đàn ông của những cô gái ở rừng cười - một khía cạnh của đời sống bản năng nữ được điều mà chỉ trong không khí đổi mới của đời sống văn học hiện đại mới được nhiều người viết chú ý khai thác.

tac-pham-ben-chien-hao-vinh-linh-cua-hoa-si-dao-duc.jpg
Tác phẩm “Bên chiến hào Vĩnh Linh” - tranh lụa của họa sĩ Đào Đức.

Dạ Ngân trong “Trên mái nhà người phụ nữ” đã rất tinh tế khi khắc họa một chi tiết thể hiện những xúc cảm và trạng thái tâm lí rất đàn bà của Hai Mật - một phụ nữ có con gái nuôi đến tuổi cập kê. Chị cảm nhận được nỗi phấp phỏng của con gái đồng thời cũng không khỏi chạnh lòng khi nghĩ đến nỗi sợ thời gian của chính mình: “chị thì vẫn trinh nguyên mà con gái chị sắp không còn con gái nữa. Nếu là người dứt ruột đẻ ra nó chắc hẳn chị đã vui mừng và lo âu trước sự bắt gặp này. Ngược lại trái tim son rỗi của chị bỗng dưng đập những nhịp đập đồng cảm bạn bè với cô con gái” (Dạ Ngân, Tuyển truyện ngắn đoạt giải cao 30 năm đổi mới 1986 - 2016, Nxb Trẻ, 2017).

Có thể thấy, trong vòng ba đến bốn thập niên qua, các nhà văn nữ đã có những bước tiến quan trọng trong sáng tác văn học. Với sự xuất hiện của nhiều tác giả nổi bật như Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Lê Minh Khuê, Dạ Ngân, Trần Thùy Mai, Phan Thị Vàng Anh, Trần Thanh Hà, Nguyễn Thị Châu Giang, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư, Phong Điệp, Nguyễn Thị Kim Hòa…, văn học nữ đã thoát khỏi những chế định trước đó, mang đến một cách tiếp cận mới mẻ đối với nhiều vấn đề của đời sống, trong đó có chiến tranh và hậu chiến. Với góc nhìn nhạy cảm, sâu sắc và giàu tính nhân văn, các nhà văn nữ đã làm phong phú thêm bức tranh văn học Việt Nam, góp phần phản ánh chân thực những góc khuất của chiến tranh qua lăng kính nữ giới./.

Bài liên quan
  • Dòng chảy hiện sinh trong thơ hiện đại Việt Nam
    Trong triết học phương Tây hiện đại, chủ nghĩa hiện sinh nổi bật như một cuộc đối thoại sâu sắc với thân phận con người, đặt ra những câu hỏi day dứt về sự tồn tại và mối quan hệ giữa cái hữu hạn - cái vô cùng.
(0) Bình luận
  • Phát huy vai trò của văn nghệ sĩ Thủ đô trong phát triển công nghiệp văn hóa
    Hà Nội - Thủ đô tự nhiên của lưu vực sông Hồng, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước từ ngàn xưa đã là nơi hội tụ và đào luyện nhân tài. Phần lớn danh nhân Việt Nam từng sống, làm việc, sáng tạo ở Thăng Long - Hà Nội, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc. Ở mảnh đất hội tụ tinh hoa văn hóa bốn phương ấy, con người Thăng Long mang trong mình nét tài hoa, đa tài, đa nghệ, thấm đẫm bản sắc trí tuệ và tinh thần sáng tạo. Trong đó, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ - những người sinh ra, lớn lên hoặc gắn bó với Hà Nội đã góp phần tạo nên diện mạo văn hóa, nghệ thuật Thủ đô bằng nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, khẳng định sức sống trường tồn của văn hóa nghìn năm. Họ chính là nguồn lực đặc biệt không thể thiếu trong hành trình phát triển công nghiệp văn hóa của Hà Nội hôm nay.
  • Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong bối cảnh hội nhập
    Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết của các cấp, các ngành mà còn là sứ mệnh đặc biệt của đội ngũ văn nghệ sĩ Thủ đô. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, việc xác định rõ những trọng tâm trong xây dựng hệ giá trị văn hóa là hết sức cần thiết.
  • Những lưu dấu văn hóa về Hà Nội qua ngôn từ văn chương
    Ngay từ nền văn học Việt Nam trung đại, những trước tác về miền đất thiêng (đất thánh) Đông Đô - Thăng Long - Hà Nội đã được ghi khắc trong sử văn: “Chiếu dời đô” (thế kỷ XI) của Lý Công Uẩn, “Thượng kinh ký sự” (thế kỷ XVIII) của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, “Vũ trung tùy bút” (thế kỷ XIX) của Phạm Đình Hổ, “Long Thành cầm giả ca” (thế kỷ XIX) của Nguyễn Du, “Thăng Long thành hoài cổ” (thế kỷ XIX) của Bà Huyện Thanh Quan.
  • Hai thể thơ mới namkau và 1-2-3 trong lịch sử phát triển của các thể thơ dân tộc
    Khoảng mươi năm gần đây, trên thi đàn Việt xuất hiện hai thể thơ mới: namkau và 1-2-3. Là sản phẩm của thế kỷ công nghệ số, những thể thơ này còn đang ở thời kỳ phôi thai trứng nước.
  • Văn Cao, mùa bình thường...
    Văn Cao là một người tài hoa. Gọi ông là nhạc sĩ, thi sĩ hay họa sĩ đều được. Song tôi nghĩ, gọi ông là nhạc sĩ vẫn chuẩn xác hơn cả, bởi đó là điểm khởi đầu cũng là lĩnh vực ông bộc lộ tài năng nhất và cũng thành công nhất. Nhưng hãy khoan bàn về điều này, tôi muốn phác họa đôi nét về con người Văn Cao qua ấn tượng của mình sau hai lần gặp gỡ...
  • GS.TS Kiều Thu Hoạch: Người cần mẫn nghiên cứu văn hóa dân gian
    GS.TS Kiều Thu Hoạch năm nay bước sang tuổi 92. Đi qua hành trình gần trọn một thế kỷ, ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị. Đó là sự kết tinh trí tuệ của một học giả Hán Nôm uyên bác cùng hành trình trải nghiệm học thuật và cả sự tiếp xúc với các bậc túc nho nhiều thế hệ. Những công trình ấy đã mở ra nhiều hướng tiếp cận khả thi trong nghiên cứu lịch sử, văn hóa Việt Nam.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Hội Điện ảnh Hà Nội: 3 thập kỷ sáng tạo và cống hiến
    Sáng 12/11, tại Hãng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương (465 Hoàng Hoa Thám, Hà Nội), Hội Điện ảnh Hà Nội tổ chức lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập (12/11/1995 – 12/11/2025). Lễ kỷ niệm là dịp để Hội Điện ảnh Hà Nội cùng nhau nhìn lại hành trình đã qua, để tri ân những người đi trước và để thắp lên ngọn lửa cho sự tiếp nối mạnh mẽ hơn.
  • Ra mắt sách của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về xây dựng lực lượng Công an nhân dân
    Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật vừa ra mắt bạn đọc cuốn sách “Xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, vì nước quên thân, vì dân phục vụ” của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
  • Phát huy vai trò của văn nghệ sĩ Thủ đô trong phát triển công nghiệp văn hóa
    Hà Nội - Thủ đô tự nhiên của lưu vực sông Hồng, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước từ ngàn xưa đã là nơi hội tụ và đào luyện nhân tài. Phần lớn danh nhân Việt Nam từng sống, làm việc, sáng tạo ở Thăng Long - Hà Nội, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc. Ở mảnh đất hội tụ tinh hoa văn hóa bốn phương ấy, con người Thăng Long mang trong mình nét tài hoa, đa tài, đa nghệ, thấm đẫm bản sắc trí tuệ và tinh thần sáng tạo. Trong đó, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ - những người sinh ra, lớn lên hoặc gắn bó với Hà Nội đã góp phần tạo nên diện mạo văn hóa, nghệ thuật Thủ đô bằng nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, khẳng định sức sống trường tồn của văn hóa nghìn năm. Họ chính là nguồn lực đặc biệt không thể thiếu trong hành trình phát triển công nghiệp văn hóa của Hà Nội hôm nay.
  • Công bố vật phẩm Giải Marathon quốc tế TP. Hồ Chí Minh Techcombank mùa thứ 8
    Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 7/11 – Giải chạy biểu trưng của Thành phố Hồ Chí Minh - “Giải Marathon Quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh Techcombank Mùa thứ 8” - chính thức công bố bộ vật phẩm thi đấu (race kit) được thiết kế lấy cảm hứng từ tầm nhìn phát triển Thành phố trở thành siêu đô thị quốc tế.
  • Kết nối văn hóa xứ Hàn qua triển lãm Ánh sáng Hàn Quốc tại Hà Nội
    Gần 1.300 chiếc đèn lụa Jinju (Hàn Quốc) đang tỏa sáng rực rỡ trong không gian trưng bày của triển lãm “Ánh sáng Hàn Quốc: Đèn lụa Jinju” tại Trung tâm Văn hóa Hàn Quốc (Hà Nội).
Đừng bỏ lỡ
Cây bút nữ với đề tài chiến tranh
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO