Lý luận - phê bình

Thơ truyền thống trong thời đại số

Nhà văn Nguyễn Vinh Huỳnh 28/11/2024 09:20

Thơ truyền thống là loại thơ viết theo đúng niêm luật, thường bó buộc trong các thể loại: Lục bát, Đường luật (Nhất, tam ngũ bất luận), song thất lục bát, thơ (bốn, năm, sáu, bẩy, tám) chữ… phải có vần điệu, cấu tứ rõ ràng và ngôn từ là phương tiện để nhà thơ biểu đạt, giãi bày tình cảm, tư tưởng tinh thần của tác giả. Trong thời đại số, thơ truyền thống vẫn được nhiều tác giả tiếp nối nhưng theo một hình thức mới, nội dung mới và nhà thơ không bị giới hạn bởi bất kỳ khuôn phép nào.

Phá cách và hài hước

Nhà thơ Đặng Thiên Sơn nhận định: “Thời kỳ khuôn phép đã qua, thi đàn thay đổi xuất hiện đa dạng rất nhiều hình thức: Tượng trưng, siêu thực, tân hình thức, ngắt dòng, thơ Haiku… tuy nhiên hình thức chỉ là cái vỏ, không có chuyện thể loại, hình thức này hay hơn hình thức kia. Thơ vẫn tồn tại, luôn luôn có người đọc, chỉ khác là tùy từng loại thơ mà có các đối tượng tiếp nhận khác nhau.
Quan sát thơ truyền thống trong thời đại số dễ dàng nhận thấy đặc điểm nổi trội đó là sự phá cách. Phá cách thể hiện trong cách ngắt vần, nhịp. Chẳng hạn như trong bài “Ngẫu hứng hoàng hôn” của Phạm Công Trứ:

Chiều xuống
là lúc gió lên
Nắng tắt
là lúc bóng đêm chôn ngày
Mắt không là khói
mà cay
Người không là gió
mà bay là là
Hay, trong thơ bốn chữ của Hàm Anh:
Ta là mây trắng
mãi mãi đến sau
thơ dại bạc đầu
trôi…

(Mây)

Thơ năm chữ của Trần Vũ Long:
Bốn phương và tám hướng
Bụi đường hút chân mây
Trả vay đời vô lượng
Chạm vào men rượu say

(Rượu một mình)

Cũng có khi tác giả sử dụng thanh điệu, trình bày sắp đặt ngôn từ như trò chơi:
“Sắc 0
sắc 00 sắc đều 00
sắc 00
sinh ra từ 0
…..
0 em thơ anh ngày
thế là
phải lòng
ký ức

(Sắc 0 - Nguyễn Thị Thúy Hạnh)

Một đặc điểm dễ nhận thấy của thơ truyền thống trong thời đại số đó là giọng điệu hài hước. Đặc trưng này tương phản với dòng thơ chủ đạo, và thường mang nhiều cấp độ, sắc thái: Giễu nhại, trêu ghẹo, châm biếm, mỉa mai, đả kích… Nhìn chung rất tươi mới, trẻ trung, chuyển tải được những nội dung sâu rộng, phức tạp của đời sống xã hội và con người hiện đại. Nhiều bài thơ như một trò chơi bông đùa ứng dụng ngôn ngữ mạng, nói lái để tạo ra tiếng cười tếu táo. Tiêu biểu cho giọng thơ này có thể kể đến nhà thơ Bảo Sinh, Trần Hưng… Nhiều bài thơ của họ đã được lan tỏa rộng rãi trong cộng đồng mạng gần như những câu cửa miệng.

Xin được dẫn thơ của Bảo Sinh làm minh chứng: Chân lý ở giữa hai chân/ Tâm hồn cách rốn độ gần một gang,

hay:
Áo gì cứ mỏng mòng mong
Kiểu này rồi đến phải lòng mất thôi
Rủi mai hóa cát bụi rồi
Xin em đốt vía cho tôi áo này

(Xin em - Văn Thùy)

Khoảng trống và thách thức

Thực tế cho thấy, số lượng thơ xuất bản hàng năm lớn hơn nhiều so với thời trước, mỗi ngày có đến vài chục tập thơ đang được duyệt tại cục xuất bản. Đa phần các tác giả thơ ra mắt tác phẩm không phải để kiếm tiền mà do nhu cầu giải tỏa, làm thơ là một liệu pháp khích lệ tinh thần.

Tuy nhiên, trái với sự gia tăng về số lượng xuất bản, thơ truyền thống hiện nay dường như đang sụt giảm. Người làm thơ truyền thống ngày càng hiếm đi, người trẻ không mặn mà viết thơ lục bát, và cũng không còn nhiều sân chơi cho thơ truyền thống. Nhiều nhà thơ chưa ý thức được việc làm thế nào để chạm đến trái tim người đọc, đáp ứng sự đón đợi, cũng như thay đổi nhận thức của người đọc, chưa kể là tác động đến cuộc sống xã hội. Có nhiều tác giả tham lam đưa vào tập thơ một mớ hổ lốn, vụn vặt, ôm đồm như một tập nhật ký mà không hề có bố cục chủ đề, nên đã không thể hiện được phong cách lại thiếu dấu ấn cá nhân. Đọc qua thấy đèm đẹp, dễ vào, nhưng để phê bình thì không biết nói gì.

Vậy làm thế nào để tiếp tục khơi dòng chảy thơ truyền thống nhất là trong bối cảnh của công nghệ số hiện nay. Theo nhà thơ Trần Hưng việc phân chia hình thức không quan trọng, bởi hình thức nào cũng nhanh cũ. Điều cần lưu ý hơn đó yếu tố đời sống của thời đại số ảnh hưởng tới thơ và nhà thơ. Từ góc nhìn của người sáng tác nhà thơ Trần Hưng lưu đến yếu tố từ vựng. Anh quan niệm, chữ (ngôn từ) chính là yếu tính là nội dung tạo nên thơ, là vật liệu (đời sống) của thơ thời hiện đại. Nói như nhà thơ Lê Đạt thì chỉ cần dùng chữ nghĩa cho “đúng chỗ”, “hợp văn cảnh” là có thơ hay.

“Ngôn từ tiếng Việt biến chuyển không ngừng, ngôn ngữ toàn cầu xuất hiện, tiếng Anh, ngôn ngữ mạng cũng được đưa vào thơ, do vậy nếu viết theo thể lục bát thì khó bắt vần được, do đó nhà thơ cần cách diễn đạt khác để biểu đạt được ý đồ nghệ thuật, hơi thở cuộc sống. Việc đưa những từ vựng ngoại lai đi vào tác phẩm khá dễ, nhưng vấn đề là phải đưa vào như thế nào để người đọc chấp nhận. Muốn vậy tác giả cần phải xử lý tạo nên hiệu ứng nghệ thuật cho những từ vựng đó (ví như như Tiếng Anh thường là từ đa âm tiết, khi dùng cần tách âm ra như “Online” = “On” + “line” hoặc có thể chỉ cần dùng từ “on”) chỉ khi ấy những từ ngoại lai mới hòa nhập, mới thuần Việt”, nhà thơ Trần Hưng nêu quan điểm. Điều này anh cũng đã vận dụng khá rõ nét trong thơ mình:

Ước gì Net hiểu cho Com
Lượt like này đã bao gồm tình yêu
….
Tôi thấy tôi là copy
Xin em một bản Tứ Kỳ nay mai
Vài dòng trăm tag nghìn like
Bao nhiêu chữ cái thì ngoài nhớ quên

(Đứng dậy khỏi máy tính - Trần Hưng)

Bên cạnh yếu tố từ vựng, nhà thơ Trần Hưng cho rằng cần chú trọng những thử nghiệm của các trường phái mới, ý tưởng mới nhưng nội dung vẫn truyền tải những vấn đề muôn thuở: Triết lý nhân sinh và tâm trạng, nỗi đau thân phận con người, tình yêu…
Tác phẩm văn học như một quá trình trong đó tác giả, văn bản và người đọc luôn gắn bó hữu cơ. Nếu tác phẩm chưa đến được với người đọc thì vẫn chỉ là văn bản. Điều này dẫn tới “cái chết” của tác phẩm bởi qua mỗi người đọc với cái nhìn, cách nhìn riêng, tác phẩm lại có những ánh xạ riêng.

Dẫn khái niệm của phương Tây “làm thơ là biến thế giới của mình thành thế giới của người khác”, nhà thơ Hoàng Liên Sơn cho rằng trong bối cảnh truyền thông số vai trò của phê bình thơ và các nhà phê bình thơ rất quan trọng để kéo công chúng độc giả đến với thơ. Khi mà cơ chế thị trường không còn chuyện hữu xạ tự nhiên hương, thì việc tác giả tự tiếp thị thơ cũng là một tất yếu.

“Công chúng tiếp nhận thơ như thế nào cũng là một yếu tố quan trọng (thậm chí có tính chất quyết định). Hiện nay, người thưởng thức thơ hết sức dân chủ và đa thanh. Làm sao để thơ hiện đại khiến người đọc phải suy nghĩ, trăn trở để tìm kiếm ý đồ nghệ thuật của tác giả cũng như những điểm đặc sắc trong tư duy nghệ thuật của mỗi nhà thơ; làm sao để người đọc thực hiện vai trò “đồng sáng tạo”, đó cũng là thách thức đối với các nhà thơ./.

Bài liên quan
(0) Bình luận
  • Phát huy vai trò của văn nghệ sĩ Thủ đô trong phát triển công nghiệp văn hóa
    Hà Nội - Thủ đô tự nhiên của lưu vực sông Hồng, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước từ ngàn xưa đã là nơi hội tụ và đào luyện nhân tài. Phần lớn danh nhân Việt Nam từng sống, làm việc, sáng tạo ở Thăng Long - Hà Nội, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc. Ở mảnh đất hội tụ tinh hoa văn hóa bốn phương ấy, con người Thăng Long mang trong mình nét tài hoa, đa tài, đa nghệ, thấm đẫm bản sắc trí tuệ và tinh thần sáng tạo. Trong đó, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ - những người sinh ra, lớn lên hoặc gắn bó với Hà Nội đã góp phần tạo nên diện mạo văn hóa, nghệ thuật Thủ đô bằng nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, khẳng định sức sống trường tồn của văn hóa nghìn năm. Họ chính là nguồn lực đặc biệt không thể thiếu trong hành trình phát triển công nghiệp văn hóa của Hà Nội hôm nay.
  • Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong bối cảnh hội nhập
    Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết của các cấp, các ngành mà còn là sứ mệnh đặc biệt của đội ngũ văn nghệ sĩ Thủ đô. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, việc xác định rõ những trọng tâm trong xây dựng hệ giá trị văn hóa là hết sức cần thiết.
  • Những lưu dấu văn hóa về Hà Nội qua ngôn từ văn chương
    Ngay từ nền văn học Việt Nam trung đại, những trước tác về miền đất thiêng (đất thánh) Đông Đô - Thăng Long - Hà Nội đã được ghi khắc trong sử văn: “Chiếu dời đô” (thế kỷ XI) của Lý Công Uẩn, “Thượng kinh ký sự” (thế kỷ XVIII) của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, “Vũ trung tùy bút” (thế kỷ XIX) của Phạm Đình Hổ, “Long Thành cầm giả ca” (thế kỷ XIX) của Nguyễn Du, “Thăng Long thành hoài cổ” (thế kỷ XIX) của Bà Huyện Thanh Quan.
  • Hai thể thơ mới namkau và 1-2-3 trong lịch sử phát triển của các thể thơ dân tộc
    Khoảng mươi năm gần đây, trên thi đàn Việt xuất hiện hai thể thơ mới: namkau và 1-2-3. Là sản phẩm của thế kỷ công nghệ số, những thể thơ này còn đang ở thời kỳ phôi thai trứng nước.
  • Văn Cao, mùa bình thường...
    Văn Cao là một người tài hoa. Gọi ông là nhạc sĩ, thi sĩ hay họa sĩ đều được. Song tôi nghĩ, gọi ông là nhạc sĩ vẫn chuẩn xác hơn cả, bởi đó là điểm khởi đầu cũng là lĩnh vực ông bộc lộ tài năng nhất và cũng thành công nhất. Nhưng hãy khoan bàn về điều này, tôi muốn phác họa đôi nét về con người Văn Cao qua ấn tượng của mình sau hai lần gặp gỡ...
  • GS.TS Kiều Thu Hoạch: Người cần mẫn nghiên cứu văn hóa dân gian
    GS.TS Kiều Thu Hoạch năm nay bước sang tuổi 92. Đi qua hành trình gần trọn một thế kỷ, ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị. Đó là sự kết tinh trí tuệ của một học giả Hán Nôm uyên bác cùng hành trình trải nghiệm học thuật và cả sự tiếp xúc với các bậc túc nho nhiều thế hệ. Những công trình ấy đã mở ra nhiều hướng tiếp cận khả thi trong nghiên cứu lịch sử, văn hóa Việt Nam.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
Thơ truyền thống trong thời đại số
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO