Đền Quán Đôi (quận Cầu Giấy)
Đền Quán Đôi thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội.
Đền Quán Đôi hiện ở làng An Phú, phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Đền Quán Đôi ở phía tây cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 5km. Thời Lý - Trần, di tích thuộc vùng đất kẻ Bưởi là một vùng đất cổ, mảnh đất chiến lược quân sự qua các thời đại, vùng đất giao điểm của con sông: sông Thiên Phù, sông Tô Lịch và sông Nhuệ. Dấu ấn vàng son lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm và xây dựng quê hương còn in đậm trên mảnh đất này qua các di tích lịch sử văn hóa như: đình An Phú, đền Quán Đôi, chùa Hoa Lăng, Ủng Thành Đền Quán Đôi là nơi phụng thờ và tưởng niệm những vị phúc thần có công giúp vua Lý Thánh Tông dẹp giặc Ma Na, bảo vệ nền độc lập dân tộc ở thời Lý là công chúa Phương Nương và hoàng tử Thống. Căn cứ cuốn thần tích chữ Hán còn lưu tại di tích cho biết: “Công chúa Phương Nương là con gái của một vị tù trưởng họ Trần tên là Lữ, quê ở trang Yên Dũng, huyện Tứ Kỳ, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương, vợ là Nguyễn Thị Hoàn. Khi trưởng thành nàng Phương được gả cho vị quan trong triều nhà Lý là Lý Công Trinh. Ngày mùng 8 tháng chạp năm Ất Mão, nàng Phương sinh được một người con trai đặt tên là Thống. Năm cậu Thống 18 tuổi, giặc Ma Na đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Cha của Thống là Lý Công Trinh được cử đi dẹp giặc, nhưng do lực lượng của giặc quá mạnh nên ông đã bị giết hại ở Bàng Châu. Sau đó hai mẹ con nàng Phương phải trốn về trang Dịch Vọng Tiền thuộc huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Tại đây mẹ con nàng được ông Lê Công Đoan là người giàu có chu cấp tiền để sống qua lúc khó khăn. Ngày 21 tháng năm, trời đất bỗng tối tăm, mưa to gió lớn nổi lên, hai mẹ con tự nhiên mà hóa (chỗ đó, hiện nay là đền Quán Đôi). Sau đó thấy mối đùn lên thành ngôi mộ. Được tin báo, vua tỏ lòng tiếc thương hai mẹ con đã vì nghĩa lớn mà hy sinh tính mạng, nhà vua bèn sắc phong cho phép dân làng dựng miếu thờ. Từ đó tới nay, nơi đây rất linh thiêng, ai có trắc trở khó khăn đến đền cầu khấn đều được bình yên.
Về sự tích đền Quán Đôi còn có bài viết rất đáng chú ý của nhà nghiên cứu lịch sử, văn hoá huyện Từ Liêm là Đỗ Thỉnh'. Nội dung như sau: Đền Quán Đôi phụng thờ bà Thái hậu Phương Dung và con trai 3 tuổi - là vợ và con của Hậu Lý Nam Đế, tức Lý Phật Tử (571 - 602).
Theo truyền thuyết, vào năm 602, quân đội nhà Tuỳ do Lưu Phương thống lĩnh sang xâm lược, tiến quân đánh vào thành Ô Diên, Long Biên và Cổ Loa. Hoàng thái hậu Phương Dung được các tướng hộ tống mang theo hoàng tử mới 3 tuổi chạy đi lánh nạn. Một hôm chạy đến bờ sông Tô Lịch thì quân địch tràn đến, quân lính đi hộ tống chống lại quân giặc, hai mẹ con chui vào bụi rậm. Nhưng sau quân ta chống không nổi, quân giặc bắt được hai mẹ con bà. Tướng giặc thấy một người đàn bà đẹp liền dụ hàng và muốn lấy làm vợ, nhưng bà nhất định không chịu nên bị chúng giết chết cả hai mẹ con. Sau vài ba ngày nhân dân chạy giặc trở về đi qua mới biết, thì xác hai mẹ con đã bị mối đùn xông kín. Nhân dân cho đó là “Thiên táng” và cảm phục người phụ nữ bất khuất, nên lập miếu để thờ. Thời đó người ta gọi là Quán (theo quan niệm của Đạo Lão) Đôi (tức là thờ cả hai người). Hiện nay ở chùa Duệ (thôn Tiền, phường Dịch Vọng Tiền) còn hai di vật mang từ Quán Đôi về (để ở điện Mẫu): Bức hoành phi có bốn chữ Hán “Hậu Lý mẫu nghi”, ghi năm Bảo Đại Giáp Tuất (1934); một tấm bia đá dựng ngày 25 tháng 10 năm Khải Định thứ 9 (1925), nội dung khắc ghi các sắc phong cho hoàng hậu Phương Dung của các triều Nguyễn như: Tự Đức năm thứ 10 (1857), Tự Đức thứ 12 (1859), Tự Đức thứ 20 (1868), Duy Tân thứ 3 (1909).
Đền Quán Đôi được xây dựng trên đất kề sát sông Tô Lịch thoáng mát, quay hướng đông nhìn ra sông Tộ, phía trước đền là đường đi, bên ngoài có các cây xanh cổ thụ quanh năm tỏa bóng mát, tạo cảnh thanh u tĩnh lặng cho di tích. Bờ sông bên kia là địa điểm di chỉ khảo cổ Ủng Thành được thám sát khai quật năm 2004. Đặc biệt, ở dưới lòng sông Tô trước đền năm 2006, các nhà khảo cổ học đã tìm được nhiều di vật cổ vật có niên đại thời Trần, Lê.
Bố cục mặt bằng kiến trúc đền kiểu chữ “nhất” gồm 3 gian xây kiểu tường hồi bít đốc tay ngai, mái lợp ngói ta, bộ khung đỡ mái gồm 2 bộ vì kết cấu kiểu “thượng chồng rường giá chiêng hạ kẻ”, nền nhà lát gạch vuông.
Hậu cung gồm một gian, một dĩ, mái lợp ngói ta, nền nhà lát gạch vuông. Các bộ vì đỡ mái kết cấu kiểu “kèo cầu quá giang cột trốn”.
Đền Quán Đôi hiện còn lưu giữ nhiều di vật quý như: ngai thờ, nhang án, giá văn, kiệu rước, đặc biệt là cuốn thần tích bản sao và tấm bia hậu thần đề “mục lục Thái Hoàng bi ký” niên hiệu Bảo Đại thứ 16 (1941) có nội dung: “sắc cho xã Dịch Vọng Tiền, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông vốn thờ Dực Bảo Trung Hưng, Hậu Lý Nam Đế thái hậu. Hoàng thái hậu đã bảo vệ đất nước, che chở cho dân có nhiều công đức, đã từng được ban cấp sắc chỉ cho phép dân thờ phụng, đến nay đã ban chiếu quý, ơn lớn về lễ đáng được xếp lên bậc...”.
Hội đền Quán Đôi được tổ chức vào ngày mùng 2 tháng hai âm lịch. Đền Quán Đôi là một công trình kiến trúc tín ngưỡng có lịch sử tạo dựng rất sớm.
Đền Quán Đôi đã được Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 2008./.
Theo Hà Nội Danh thắng và Di tích tập 01