Di tích Nhà tù Hoả Lò
Nhà tù Hoả Lò hiện nay ở vị trí số nhà 1 phố Hoả Lò, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Nguyên đây là thôn Phụ Khánh, nơi chuyên làm các loại ấm đất, siêu đất và các loại hoả lò bằng đất đem bán khắp kinh kỳ nên có tên gọi là Hoả Lò.
Chiếm được Hà Nội, thực dân Pháp đã chọn nơi trung tâm này, dỡ bỏ chùa Lưu Ly, chùa Bích Thư và chùa Bích Hạ, đuổi 48 hộ dân thôn Phụ Khánh để có mặt bằng gần 13 ngàn mét vuông xây dựng một nhà tù kiên cố bậc nhất ở Đông Dương. Công việc xây dựng được bắt đầu từ năm 1896 với yêu cầu rất cao: “Tất cả kim loại được dùng phải nhập từ Pháp và có chất lượng hàng đầu. Các ổ khoá, bản lề, ke cửa, đinh móc và các góc cửa phải là những loại có chất lượng tốt nhất và được kiến trúc sư Pháp chấp nhận... Vật liệu xây dựng bằng gạch: Gạch phải được thấm nước trước khi xây để thấm vữa... Kính tấm được sử dụng phải là kính được chuyển từ Pháp sang. Kính phải rất rõ và không có bọt”.
Bao quanh nhà tù là một bức tường xây kiên cố cao 4m, dày 0,5m, có cốt thép. Mặt tường cắm đầy mảnh chai, chăng dây thép gai, có điện cao thế. Bốn góc có 4 tháp canh (nay ở phần còn lại có 2 tháp) có khả năng quan sát toàn bộ phía trong và xung quanh phía ngoài nhà tù. Phía trong tường có đường cho lính canh đi tuần. Trước đây, nhà tù có 2 khu: khu thường phạm và khu chính trị phạm. Khu thường phạm gồm nhà 7 gian, nhà 8 gian và xưởng sửa chữa. Khu chính trị phạm gồm các trại nhất, nhì, ba, trại 9 gian, dãy xà lim B và C, trại nữ, trại lô cốt nhỏ... Mỗi nhà giam chỉ có một cửa ra vào bằng sắt đóng kín và một lỗ cửa thông hơi rất hẹp. Tường quét màu xám, phía dưới sơn hắc ín. Một số nhà giam không có hố xí, thùng phân để ngay trong nhà, phân và nước tiểu tràn ra hôi thối nồng nặc. Hai dãy xà lim gồm 40 cái để nhốt những người bị án tử hình (xà lim án chém). Người tù bị cùm cả hai chân, nằm trên nền xi măng, không quần áo, chăn chiếu...
Tù chính trị ở đây là những cán bộ, đảng viên và người dân yêu nước chống Pháp. Những người bị kết án 5 năm trở lên bị chuyển đi nhà tù Sơn La, Hà Giang, từ 10 năm trở lên bị chuyển đi Côn Đảo, dưới 5 năm và tử hình thì giam ở Hoả Lò.
Nhiều nhà lãnh đạo yêu nước và cách mạng Việt Nam đã bị giam giữ tại đây, như Phan Bội Châu, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Lương Bằng và 5 đồng chí Tổng Bí thư sau này: Nguyễn Văn Cừ, Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười.
Nhà tù Hoả Lò được thiết kế giam từ 300 đến 400 người, nhưng số tù ở đây thường xuyên quá tải, có năm (1932) chúng đã nhốt tới 1400 người. Trại nữ chỉ có 270m2 mà chúng nhốt tới 300 người. Không thể kể hết về âm mưu thâm độc của bọn thống trị và cai ngục muốn hành hạ, đày đọa người tù, đặc biệt là tù chính trị, một cách dã man, tàn bạo, nhằm khuất phục họ. Nhưng chính ở nơi địa ngục trần gian này, những người cộng sản đã tổ chức được chi bộ Đảng để lãnh đạo cuộc đấu tranh với chế độ nhà tù hà khắc, đồng thời nâng cao giác ngộ chính trị và chuẩn bị những cơ hội vượt ngục để về với cách mạng. Đêm Noel 1932, 7 đồng chí đảng viên giả vờ ốm nặng được đưa sang bệnh viện Phủ Doãn (bệnh viện Việt - Đức ngày nay) chữa bệnh, đã tổ chức vượt ngục thành công. Ngày 10/3/1945, đồng chí Trần Đăng Ninh và 8 đồng chí đã nhảy tường thoát khỏi trại giam. Ngày hôm sau, 30 đảng viên cộng sản lại thoát khỏi nhà tù Hoả Lò bằng con đường cống ngầm, trở về với cách mạng. Những ngày sau đó, khoảng 100 đồng chí tiếp tục vượt ngục bằng đường cống ngầm và thành công trọn vẹn.
Thủ đô được giải phóng, Hoả Lò được dùng để tạm giam những người vi phạm pháp luật. Từ năm 1964 đến 1973, các phi công Mỹ bị bắt khi đánh phá miền Bắc cũng được giam giữ tại đây. Trong số đó có Peterson, người sau này trở thành đại sứ Mỹ đầu tiên tại Việt Nam. Từ năm 1993, để đáp ứng yêu cầu phát triển của Thủ đô (xây dựng tháp Trung tâm Hà Nội), nhà tù Hoả Lò chỉ giữ lại 1/3 diện tích với 2.432m2, gồm các hiện vật như tường bao, 2 tháp canh, phòng giam tù nhân nam, phòng giam tù nhân nữ, khu xà lim tử hình, khu ngục tối, các loại cùm, máy chém, những di vật gắn liền với cuộc vượt ngục, các hoạt động cách mạng của các chiến sĩ yêu nước.
Gần nửa thế kỷ là công cụ đàn áp của thực dân Pháp và bè lũ tay sai, Hoả Lò trở thành một “nhân chứng” về tội ác tày trời, dã man của bọn chúng. Hoả Lò cũng là nơi “chứng kiến” nhiều thế hệ tù nhân, nhiều lớp tù chính trị ở tất cả các tỉnh miền Bắc, “có bao nhiêu phong trào yêu nước và cách mạng bùng nổ thì ở nhà tù Hoả Lò có bấy nhiêu lớp chiến sĩ tiêu biểu cho những phong trào đó đã bị giặc bắt”.
Di tích Nhà tù Hoả Lò đã được trùng tu, tôn tạo lại trong 1/3 diện tích nhà tù Hoả Lò, vào năm 1998.
Di tích gồm 2 khu A và B - là các trại giam của thực dân Pháp đối với tù chính trị, nam và nữ. Di tích được bố trí các phòng trưng bày bổ sung, mô phỏng việc giam cầm tù chính trị các thời kỳ từ năm 1931 - 1954. Ở đây đã ghi danh các tù chính trị và hình ảnh đấu tranh kiên cường của chiến sĩ cộng sản tại nhà tù. Trong di tích còn có 2 phòng giới thiệu các phi công Mỹ bị bắt trong chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ từ năm 1964 đến tháng 3 năm 1973.
Trong khuôn viên di tích Hoả Lò, phía ngoài trời là khu tượng đài bằng đá (khắc chìm) biểu thị tinh thần bất khuất của các chiến sĩ cộng sản trước kẻ thù tàn bạo.
Di tích Nhà tù Hoả Lò đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích lịch sử - văn hoá năm 1997./.
Theo Hà Nội Danh thắng và Di tích tập 02