Đền Hai Bà Trưng (huyện Mê Linh)
Hai bà Trưng Trắc và Trưng Nhị (hai chị em sinh đôi); sinh ngày mồng 1 tháng 8 năm 14 sau Công nguyên tại thôn Cổ Lôi (nay là thôn Hạ Lôi), xã Mê Linh, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội.
Là con của Lạc tướng huyện Mê Linh và bà Man Thiện người làng Nam Nguyễn (Ba Vì, Hà Nội) là cháu chắt bên ngoại vua Hùng. Vốn dòng dõi con nhà Lạc tướng, Hai Bà có trí thông minh, giỏi võ nghệ, bản lĩnh hơn người. Năm 19 tuổi, Trưng Trắc kết duyên với Thi Sách - con trai Lạc tướng huyện Chu Diên. Lãnh thổ Mê Linh và Chu Diên liền cõi, hai gia đình đều là Lạc tướng nên thanh thế, uy danh càng thêm lớn.
Chính sách cai trị tàn bạo của nhà Đông Hán thôi thúc vợ chồng Trưng Trắc - Thi Sách tính kế nổi dậy chống lại giặc Hán xâm lược. Thái thú Tô Định giết chết Thi Sách. Việc đó không làm Trưng Trắc sờn lòng, trái lại càng thôi thúc bà và em gái là Trưng Nhị quyết tâm khởi nghĩa đánh đổ chính quyền đô hộ, rửa nợ nước trả thù nhà, dựng lại cơ nghiệp xưa của các vua Hùng.
Cuộc khởi nghĩa nổ ra vào “mùa xuân, tháng 2, niên hiệu Kiến Vũ thứ 16” tức khoảng tháng 3 năm 40 đầu Công nguyên. Trước Đàn thề ở cửa sông Hát Môn (nay là Hát Môn, huyện Phúc Thọ, Hà Nội) - Nơi khởi phát cuộc khởi nghĩa, Trưng Trắc đã đọc 4 lời thề:
Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin vẹn vẹn sở công lênh này.
Cuộc khởi nghĩa mau chóng được sự ủng hộ của các Lạc tướng, Lạc dân toàn khu vực sông Hồng - quận Giao Chỉ rồi toàn Nam Việt và Âu Lạc cũ. Xuất quân từ Hát Môn, Hai Bà đánh phá Đô uý trị của giặc ở Hạ Lôi, rồi từ Mê Linh đánh chiếm Cổ Loa, vượt sông Hoàng, sông Đuống, xuôi sông Dâu chiếm Luy Lâu. Hoảng sợ trước khí thế ngút trời của nhân dân Âu Lạc, quan Thái thú Tô Định không dám chống cự, phải cắt tóc, cạo râu, lẻn trốn về Nam Hải. Khí thế khởi nghĩa ở Mê Linh lan rộng vào Cửu Chân, Nhật Nam sang Uất Lâm, Hợp Phố... Chỉ trong vòng 2 tháng, nghĩa quân đã làm chủ được 65 huyện thành, giải phóng toàn bộ đất nước, giành lại độc lập cho nhân dân. Nền độc lập được khôi phục sau hơn 150 năm bị nô lệ. Mùa hè năm Canh Tý, bà Trưng Trắc được tôn làm vua, hiệu là Trưng Nữ Vương, đóng đô ở Mê Linh; bà Trưng Nhị được phong là Bình Khôi công chúa, cả nước được xá thuế 2 năm.
“Bà Trưng quê ở Châu Phong,
Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân.
Ngàn tây nổi áng phong trần
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên.
Hồng quân nhẹ bước chinh yên
Đuổi ngay Tô Định dẹp yên biên thành.
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta.
Ba thu gánh vác sơn hà
Một là báo phục, hai là bá vương”.
(Đại Nam quốc sử diễn ca).
Biết trước dã tâm xâm lược của nhà Hán, Trưng Vương và các tướng lĩnh ra sức đề phòng. Trưng Vương định đô ở Hạ Lôi, Trưng Nhị xây thành Cự Triền. Mùa hè năm 42, Hán Quang Vũ phong Mã Viện làm Phục ba tướng quân đem hai vạn quân sang đánh nước ta. Hai Bà Trưng đã tiến quân từ Mê Linh xuống Lãng Bạc đánh quân xâm lược, nhưng kẻ địch đông lại nham hiểm nên quân Hai Bà bị thiệt hại nặng. Hai Bà lui về giữ thành Hạ Lôi, Cự Triền. Cuộc cầm cự diễn ra ác liệt, kéo dài một thời gian thì thế trận tan vỡ, cuối cùng Hai Bà Trưng gieo mình xuống sông Hát, chứ không chịu sa vào tay giặc.
Cuộc kháng chiến thất bại, tuy sau đó các tướng còn lại vẫn chiến đấu lẻ tẻ chống cự một thời gian nữa.
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã ghi một dấu son sáng chói trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Hào khí của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng vẫn đời đời bất diệt!
Hai Bà Trưng - là anh hùng dân tộc đầu tiên của nước ta, lại là phụ nữ, đã có công chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Khí phách của Hai Bà Trưng trong sự nghiệp giữ nước được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Sự nghiệp của Hai Bà mãi mãi ở trong lòng mỗi người dân nước Việt. Để tưởng nhớ công lao to lớn của Hai Bà Trưng, nhân dân ở các địa phương như: xã Mê Linh (huyện Mê Linh - Hà Nội); Hát Môn (huyện Phúc Thọ - Hà Nội); Xuân Đài, Tiên Đài, Quan Đài (huyện Yên Lạc - Vĩnh Phúc); Văn Giang; Đồng Nhân (nay thuộc quận Hai Bà Trưng - Hà Nội) và nhiều nơi trong cả nước lập đền thờ Hai Bà Trưng. Hàng năm nhân dân tổ chức lễ hội tưởng nhớ công đức của Hai Bà và các tướng lĩnh vào ngày mùng 6 tháng giêng. Điều đó thể hiện sâu sắc đạo lý truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta.
Đền thờ Hai Bà Trưng ở xã Mê Linh, huyện Mê Linh - Hà Nội được xây dựng ngay trên chính mảnh đất thiêng nơi Hai Bà sinh ra, lớn lên và cũng chính nơi này Hai Bà đã xưng Vương, lập Hoàng cung.
Tương truyền, triều Lý, đời vua Anh Tông (1138 - 1175), trời hạn hán. Hai Bà Trưng báo mộng, nhà vua làm lễ cầu đảo được mưa cho dân cày cấy, bèn truyền lập đền thờ Hai Bà tại cố hương. Khởi đầu, đền vẫn trông về hướng tây nam (toạ Cấn hướng Khôn). Cho đến nay, đền đã qua 5 lần trùng tu xây dựng.
Lần 1: Theo truyền thuyết, thời Hậu Lê (thế kỷ XVII) quan Thượng Láng trên đường về kinh, qua đền không xuống voi, Hai Bà liền đánh voi phủ phục. Quan Thượng Láng bèn bắt sửa quay đền về hướng tây bắc. Vì thế, đến nay vẫn còn một số đồ thờ thời Hậu Lê.
Lần 2: Đời vua Tự Đức triều Nguyễn, năm Tân Tỵ (1881) có ông Nguyễn An Liên người Hạ Lôi làm phủ uý An Lãng, thấy đền xoay hướng, dân tình bất an, bèn cùng bộ lão xoay trả hướng đền như cũ. Đồng thời cho phá bỏ hai Tả mạc để cho sân rộng rãi tiện việc tế rước.
Lần 3: Cuối năm Tân Tỵ 1881, bão to làm đổ Tam quan. Ông Bích người làng Hạ Lôi, hoạt động Cần Vương được Tôn Thất Thuyết mời vào Huế, trở ra ông lấy mẫu Ngọ Môn và xây lại Tam quan, thường gọi là Tác môn và trùng tu Tiền tế.
Lần 4: Năm 1934, tri phủ An Lãng giao chánh tổng đứng ra đốc xuất trùng tu trung điện, nên kiến trúc thay đổi mới theo.
Về kiến trúc theo kiểu “nội đinh, ngoại thất”, trong có Trung điện, Hậu cung, ngoài có Tiền tế, ngoài cùng có Tam quan.
Các tác phẩm điêu khắc hết sức có giá trị về mặt nghệ thuật chạm khắc thời Nguyễn như đôi rồng đá ở thềm toà Trung điện, các bức cửa võng, khám thờ đều là những tác phẩm chạm gỗ đẹp với các đề tài: Long chầu nguyệt, phượng cần thư, long phượng tòng vân, cúc sen hoá rồng, các loại hoa chanh, cúc, hổ phù... cùng các bộ kiệu rước được làm từ thời Lê, hoành phi, câu đối thể hiện khí phách của Hai Bà Trưng xứng danh con Hồng cháu Lạc, quyết đuổi giặc thù, mở nền tự chủ. Từ đó khởi nguồn cho nền văn hiến Việt Nam ngang hàng với Bắc quốc, cũng chính là sức mạnh trường tồn của dân tộc ta.
Vào những năm 1943 - 1944, đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư của Đảng đã lấy đền thờ Hai Bà Trưng làm một trong những nơi hội họp bí mật để chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở thủ đô Hà Nội ngày 19 tháng 8 năm 1945.
Đền Hai Bà Trưng là một di tích lịch sử đặc biệt quan trọng, được Nhà nước xếp hạng là di tích quốc gia năm 1980.
Lần 5: Ngày 29 tháng 8 năm 2002, UBND tỉnh Vĩnh Phúc ra Quyết định số 3196/QĐ - UB phê duyệt dự án quy hoạch, tôn tạo tổng thể đền thờ Hai Bà Trưng và đã được Bộ Văn hoá và Thông tin chấp thuận. Quy hoạch dự án đó được thực hiện theo hai giai đoạn: từ 2002 - 2005 và từ 2005 - 2010.
Việc tôn tạo đền thờ Hai Bà Trưng thực hiện trong giai đoạn 1 (từ năm 2002 - 2005): Tu bổ, tôn tạo 3 toà đền chính; sơn son thếp bạc các cấu kiện gỗ của 3 toà, tu bổ toàn bộ nội thất đền. Dịch chuyển nhà Tả mạc, Hữu mạc để nới rộng không gian đền; cải tạo hồ bán nguyệt, và sân đền trước Tiền tế; xây dựng hệ thống đền thờ thân, phụ mẫu Hai Bà, đền thờ thân, phụ mẫu ông Thi Sách; đền thờ các tướng lĩnh của Hai Bà; khôi phục lại thành ống, hộp thư bí mật... Giai đoạn 2 (từ năm 2005 - 2010): Xây dựng hệ thống các công trình phục vụ tham quan, du lịch, xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hệ thống đường giao thông nội tuyến, ngoại tuyến...
Đền thờ Hai Bà Trưng là một công trình văn hoá - tâm linh, một công trình kiến trúc nghệ thuật, một di tích lịch sử và cách mạng trọng điểm của huyện Mê Linh nói riêng, của thành phố Hà Nội nói chung. Đền có quy mô hoành tráng bậc nhất trong hệ thống các di tích thờ Hai Bà Trưng trong cả nước hiện nay, xứng đáng với công lao to lớn của Hai Bà trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Đồng thời, cùng với hệ thống 178 di tích của huyện Mê Linh, đền Hai Bà Trưng còn là một danh lam thắng cảnh phục vụ du lịch của khách tham quan trong và ngoài nước. Đền Hai Bà Trưng (đền Hạ Lôi) đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật năm 1980./.
Theo Hà Nội Danh thắng và Di tích tập 01