Lý luận - phê bình

Triển vọng tiểu thuyết ngắn

Nhà văn Bùi Việt Thắng 10/08/2024 15:38

Ngày nay rất khó nhìn thấy hình ảnh một người say mê đọc những bộ tiểu thuyết trường thiên như “Chiến tranh và hòa bình” của L.Tolstoy, “Sông Đông êm đềm” của M.Solokhov, “Những người khốn khổ” của V. Hugo… mặc dù đó là những kiệt tác văn chương thế giới.

Nhưng những cuốn sách “vừa tay” lại có cơ hội tồn tại khi nó phù hợp với sở thích và hoàn cảnh hiện đại. Sự riêng thích này không phải là một động thái bột phát, ngẫu hứng. Nó có căn nguyên kinh tế và văn hóa mà nhiều khi chúng ta vô tình không để ý. Nhà nghiên cứu văn hóa Trần Đình Hượu đã có lý khi nhận xét “Cái đẹp vừa ý là xinh, là khéo. Ta không háo hức cái tráng lệ, huy hoàng, không say mê cái huyền ảo, kì vĩ. Màu sắc chuộng cái dịu dàng, thanh nhã, ghét sặc sỡ. Quy mô chuộng sự vừa khéo, vừa xinh, phải khoảng. (…). Tất cả đều hướng vào cái đẹp dịu dàng, thanh lịch, duyên dáng và có quy mô vừa phải” (Đến hiện đại từ truyền thống). Tất cả những khái niệm “vừa khéo”, “vừa xinh”, “phải khoảng” là chỉ cái tính chất “vừa phải”, “vừa tầm” trong tư duy nghệ thuật (tâm lý sáng tác cũng như tâm lý tiếp nhận) của người Việt Nam có từ lâu đời. Thiết nghĩ các nhà tiểu thuyết hiện đại không thể không chú ý đến đặc trưng văn hóa này của dân tộc khi sáng tác với câu hỏi “viết cho ai đọc?” và “viết như thế nào?”. Câu hỏi này xuất phát từ góc nhìn kinh tế và cơ chế đọc hiện nay.

lac-rung.jpg

Vẫn phải thừa nhận vị trí không thể chối cãi của những “trường thiên tiểu thuyết” kiểu như “Hồ Quý Ly”, “Mẫu thượng ngàn”, “Đội gạo lên chùa” của Nguyễn Xuân Khánh (mỗi cuốn đều cỡ 900 trang khổ to), “Kiếp người” (3 tập, 1500 trang) của Hữu Ước, “Ký ức gã ăn mày” của Tôn Ái Nhân (900 trang),... Nhưng theo chúng tôi, tiểu thuyết trường thiên không có thị phần văn chương lớn như tiểu thuyết ngắn. Chỉ cần điểm qua sẽ thấy đội hình tiểu thuyết ngắn trên văn đàn đương đại là đông đảo: “Thiên sứ” (1989) của Phạm Thị Hoài, “Lạc rừng” (1999) của Trung Trung Đỉnh, “Thoạt kỳ thủy” (2004) của Nguyễn Bình Phương, “Tấm ván phóng dao” (2004) của Mạc Can, “Thiên thần sám hối (2004) của Tạ Duy Anh, “Khê Ma Ma” (2004) của Thái Bá Lợi, “Và khi tro bụi” (2007) của Đoàn Minh Phượng, “Âm dương cách trở” (2009) của Vũ Huy Anh, “Họ vẫn chưa về” (2009) của Nguyễn Thế Hùng, “Trò chơi hủy diệt cảm xúc” (2012) của Y Ban, “Chân trần” (2012) của Thùy Dương, “Con hoang” (2016) của Lê Hồng Nguyên, “Con chim Joong bay từ A đến J” (2017) của Đỗ Tiến Thụy,... Cuốn tiểu thuyết “siêu ngắn” “Hình bóng đàn bà” (2006) của Vũ Xuân Tửu chỉ có 80 trang. Theo tác giả, đây là một cuộc thí nghiệm nghệ thuật “không thành công cũng thành nhân”.

tam-van-phong-dao.jpg

Tiểu thuyết ngắn có đặc trưng gì? Theo tôi, ngoài tiêu chí “ngắn” (có độ dài dưới 300 trang), thì còn có một số tiêu chí để định vị tiểu thuyết ngắn như sau:

Sự dồn nén dung lượng: Trong nghệ thuật quy luật “quý hồ tinh bất quý hồ đa” luôn luôn đúng. Xin dẫn vài trường hợp để chúng ta cùng suy ngẫm - đó là hiện tượng Mạc Can với tiểu thuyết “Tấm ván phóng dao”. Nhà văn Hồ Anh Thái đã có một nhận xét chính xác về đặc điểm của cuốn tiểu thuyết này: “Mạc Can sử dụng hiệu quả phương pháp gián cách. Mọi sự kiện, mọi biến động của đời sống bên ngoài vừa được tái hiện trực tiếp lập tức được đẩy ra xa, đưa qua màng lọc của chàng thiếu niên, khắc in lại trong đó những đường đồ thị run rẩy. Chuyện thế sự khi ấy chỉ còn là cái cớ để cho những rung cảm của một con người được dịp phun trào ra, ngân lên. Sự kiện ngay phút chốc được xóa mờ, nhường chỗ cho những chiêm nghiệm, những rung động, những cung bậc tình cảm tinh tế nhiều vẻ” (Lời giới thiệu Tấm ván phóng dao). Sự dồn nén dung lượng, theo cách nói của nhà khoa học, giống như là cách chế tác những “vi mạch” (thể tích sự vật rất nhỏ, nhưng sức chứa dữ kiện rất lớn).

noi-buon-chien-tranh.jpg

Sự giản lược nhân vật và cốt truyện: Tiểu thuyết “Thiên thần sám hối” (2004) của Tạ Duy Anh chỉ có hai nhân vật chính: người mẹ mang thai sắp đến ngày sinh con, đứa bé ở dạng bào thai (vì còn 3 ngày nữa bé mới chào đời). Tiểu thuyết là câu chuyện về cuộc đấu tranh nội tâm của một con người dù hình hài chưa rõ ràng, nhưng đã có thể “thấu hiểu” và thậm chí “thấu cảm” được cuộc đời và cái lý, cái lẽ của cõi nhân gian “Còn bảy mươi hai giờ nữa tôi mới hết giai đoạn bào thai. Sau đó chỉ còn mỗi việc giãy đạp, gào thét mà chui ra, thế là thành người”. Cuối cùng, với tinh thần hiện sinh, đứa bé đã dứt khoát “Nhưng tôi chấp nhận cuộc sống, còn bởi một sự thật ngàn lần khó tin hơn: Con người chẳng làm được gì hơn ngoài sự chuẩn bị cho cái chết của chính mình. Vì thế họ phải chuẩn bị đến nơi đến chốn”. Tiểu thuyết của Tạ Duy Anh một dạo đã gây sóng gió dư luận bởi cái “tứ” độc đáo nhưng không dễ chấp nhận.
“Lạc rừng” của Trung Trung Đỉnh cũng là một ví dụ tiêu biểu. Tiểu thuyết có sức nén và sức phóng của một mũi tên rời khỏi dây cung, bay nhanh tới đích. Nhân vật xưng “Tôi” kể chuyện là một chiến sĩ giải phóng quân bị lạc đơn vị, sa vào giữa trùng trùng rừng núi. Anh được đồng bào dân tộc cứu chữa, nuôi nấng, đùm bọc. Một cuộc “lạc rừng” đã nảy sinh biết bao nhiêu chuyện, nhưng đằng sau những câu chuyện lạ lẫm là một cái “tứ” rất sâu đậm - sự cần thiết của những cuộc “lạc” ra ngoài hệ thống của mình, sự cần thiết phải va chạm văn hóa với hệ thống khác. “Lạc rừng” như là một tình huống tư tưởng giả định để con người có được cái phẩm tính trải nghiệm, có dịp để chiêm nghiệm và nhận biết cái lý lẽ cũng như cái tình của đời sống vốn vô cùng, vô tận. Trung Trung Đỉnh đã nêu lên một tình huống dự phóng - mỗi người cần có một lần “đi lạc” để có cơ hội ngộ ra những gì ở ngoài hệ thống của mình và là dịp kiểm tra lại năng lực thực tiễn cá nhân.

Sự giản lược nhân vật và cốt truyện, như là hệ quả tất yếu của sự dồn nén dung lượng của hình thức “tiểu thuyết ngắn” đang rất thịnh hành trong văn chương đương đại Việt Nam.

Phép “tỉnh lược”- giải pháp cho xây dựng kết cấu tác phẩm: Nghệ thuật viết là nghệ thuật rút gọn. Trong tiểu luận Nghệ thuật tiểu thuyết, nhà văn M. Kundera đã viết “Tôi nghĩ rằng để nắm bắt được tính phức tạp của cuộc sống trong thế giới hiện đại cần có một kĩ thuật tỉnh lược, cô đặc. Làm khác đi anh sẽ rơi vào cái bẫy dài dằng dặc (…). Thử tưởng tượng một tòa lâu đài khổng lồ đến nỗi không thể bao quát hết trong tầm mắt, thử tưởng tượng một bản nhạc bộ tứ kéo dài chín tiếng đồng hồ. Có những giới hạn của con người không nên vượt qua, những giới hạn của trí nhớ chẳng hạn. Khi đọc đến phần cuối cuốn sách, anh còn đủ sức nhớ lại phần đầu. Nếu không, cuốn tiểu thuyết sẽ thành dị hình, tính sáng sủa về kết cấu của nó sẽ tối sầm lại” (Tiểu luận - Nghệ thuật tiểu thuyết. Những di chúc bị phản bội).

Hiện chúng ta đang nói về “tái cấu trúc” nền kinh tế Việt Nam, nhưng suy rộng ra thì lĩnh vực nào cũng đòi hỏi phải tái cấu trúc. Đã thấy rõ những tìm tòi trong xây dựng cấu trúc tiểu thuyết theo phương pháp “dòng ý thức” (Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh), phương pháp “tiểu thuyết trong tiểu thuyết” (Phố Tàu của Thuận), phương pháp “gián cách” (Tấm ván phóng dao của Mạc Can), phương pháp “mã hóa” - chúng tôi tạm gọi (Trò chơi hủy diệt cảm xúc của Y Ban)… Tôi muốn dẫn lại ý kiến của Nguyên Ngọc nhận xét về tiểu thuyết “Khê Ma Ma” của Thái Bá Lợi để thấy rõ hơn tác dụng của “phép tỉnh lược” đối với xây dựng kết cấu tác phẩm “Thái Bá Lợi rất ít khi viết dài, rất ít khi anh để cho một cuốn sách của mình đi đến chỗ nói rốt ráo đến độ chẳng còn gì để nói tiếp nữa” (Lời bạt cho tiểu thuyết Khê Ma Ma).

Tạ Duy Anh trong một bài viết đã nhấn mạnh “Xu hướng ngắn, thu hẹp bề ngang, vừa khoan sâu chiều đọc, đa thanh hóa sự đối thoại, nhiều vỉa ý nghĩa, bi kịch thời đại được dồn nén trong một cuộc đời bình thường, không áp đặt chân lý là dễ thấy. Tiểu thuyết ít mô tả thế giới hơn là tạo ra một thế giới theo cách của nó. Ở đó con người có thể chiêm ngưỡng mình từ nhiều chiều hơn là chỉ thấy cái bóng của mình đổ dài xuống lịch sử” (Tiểu thuyết, cái nhìn cuối thế kỉ). Nhìn vào văn đàn hiện nay, có thể thấy các nhà văn nữ hiện nay ưa như Dạ Ngân, Vũ Thị Hồng, Thùy Dương, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Thị Anh Thư, Đỗ Bích Thúy, Phong Điệp, Lê Hồng Nguyên, Võ Diệu Thanh, Nguyễn Ngọc Tư,... đều ưa thích viết tiểu thuyết ngắn. Ngắn dường như hợp với “tạng” người và văn của phái nữ.
Tiểu thuyết ngắn, theo chúng tôi, có triển vọng. Tại sao không?!

Bài liên quan
  • Để lý luận phê bình sân khấu không còn thiếu và yếu
    Dù đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nghệ thuật sân khấu, thế nhưng đội ngũ lý luận phê bình (LLPB) sân khấu nước ta hiện nay vừa thiếu và yếu, vừa có dấu hiệu lệch hướng dẫn đến những hạn chế trong việc thúc đẩy sự phát triển đời sống sân khấu. Làm thế nào để nâng cao chất lượng đội ngũ LLPB sân khấu, qua đó cổ vũ sáng tác, định hướng thẩm mỹ cho công chúng, góp phần xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới, đó cũng chính là những băn khoăn, trăn trở của không ít người trong giới nghề. Dưới đây là một số những chia sẻ của các văn nghệ sĩ xoay quanh vấn đề này.
(0) Bình luận
  • Hai thể thơ mới namkau và 1-2-3 trong lịch sử phát triển của các thể thơ dân tộc
    Khoảng mươi năm gần đây, trên thi đàn Việt xuất hiện hai thể thơ mới: namkau và 1-2-3. Là sản phẩm của thế kỷ công nghệ số, những thể thơ này còn đang ở thời kỳ phôi thai trứng nước.
  • Văn Cao, mùa bình thường...
    Văn Cao là một người tài hoa. Gọi ông là nhạc sĩ, thi sĩ hay họa sĩ đều được. Song tôi nghĩ, gọi ông là nhạc sĩ vẫn chuẩn xác hơn cả, bởi đó là điểm khởi đầu cũng là lĩnh vực ông bộc lộ tài năng nhất và cũng thành công nhất. Nhưng hãy khoan bàn về điều này, tôi muốn phác họa đôi nét về con người Văn Cao qua ấn tượng của mình sau hai lần gặp gỡ...
  • GS.TS Kiều Thu Hoạch: Người cần mẫn nghiên cứu văn hóa dân gian
    GS.TS Kiều Thu Hoạch năm nay bước sang tuổi 92. Đi qua hành trình gần trọn một thế kỷ, ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị. Đó là sự kết tinh trí tuệ của một học giả Hán Nôm uyên bác cùng hành trình trải nghiệm học thuật và cả sự tiếp xúc với các bậc túc nho nhiều thế hệ. Những công trình ấy đã mở ra nhiều hướng tiếp cận khả thi trong nghiên cứu lịch sử, văn hóa Việt Nam.
  • Miền ký ức vọng về từ mùa thu Hà Nội
    Thủ đô Hà Nội mùa nào cũng đẹp, nhưng có lẽ đẹp nhất vẫn là mùa thu. Trong nhiều thi phẩm viết về Hà Nội, “Mùa thu về Hà Nội” của Mạc Phương là một bài thơ giàu chất trữ tình, gợi mở bức tranh mùa thu thơ mộng, đồng thời chan chứa nỗi niềm yêu thương, hoài niệm về một mối tình xưa.
  • Có một mùa thu vẫn còn thơ bé
    Khi những vạt nắng xanh non tháng Chín lung linh nhảy múa bên thềm nhà, bọn trẻ con đã bắt đầu vào năm học mới, lòng tôi lại rộn lên những cảm xúc bâng khuâng khó tả. Trong tâm trí, tôi thấy nhảy nhót những trang sách giáo khoa thời tiểu học, với hình ảnh con gà, con mèo, bắp cải, con trâu... lần lượt ùa về.
  • Để văn học Thủ đô tiếp tục khẳng định vị thế
    Song hành với thành tựu phát triển kinh tế, chính trị của Thủ đô 80 năm qua, Thành phố Hà Nội đang nỗ lực xây dựng hình ảnh một đô thị thanh lịch, văn minh, trong đó chiều sâu văn hóa được thể hiện qua các tác phẩm văn học nghệ thuật (VHNT) gắn bó với đời sống nhân dân Thủ đô. Nói riêng về diện mạo văn học, bên cạnh những thành tựu to lớn mà các nhà văn Hà Nội đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ thì các tác phẩm văn học có quy mô và chất lượng cao ở thời kỳ đổi mới vẫn còn thưa vắng, thậm chí mờ nhạt. Nhìn lại chặng đường sáng tạo văn chương của các nhà văn dưới mái nhà chung - Hội Nhà văn Hà Nội, đặc biệt trong 20 năm trở lại đây có thể thấy rõ điều đó.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
Triển vọng tiểu thuyết ngắn
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO