Lý luận - phê bình

Độc đáo thơ đố của Phạm Đình Ân

Nhà thơ Bùi Việt Mỹ 06:46 28/06/2024

Nhà thơ Phạm Đình Ân là tác giả thơ trữ tình, phê bình văn học, thơ văn dành cho thiếu nhi... lĩnh vực nào ông cũng có đóng góp. Riêng viết cho thiếu nhi, ông là một tác giả nổi trội, bền bỉ sáng tác suốt gần 50 năm qua, đạt nhiều thành tựu. “Vui cùng thơ đố” (NXB Phụ nữ, 2023) là tập thơ thứ hai của Phạm Đình Ân về thơ đố, cũng là đầu sách thứ hai mươi của tác giả này dành cho thiếu nhi - không kể 20 tập sách hợp thành ba đầu sách biên soạn.

download.jpg
Nhà thơ Phạm Đình Ân.

Nhận được tập sách mới ông tặng, tôi lại nhớ đến một kỷ niệm đẹp, đó là mối tương giao văn chương - báo chí giữa hai anh em. Những năm tôi phụ trách báo Người Hà Nội, ông lui tới thường xuyên, cộng tác tích cực. Tôi lưu tâm đến văn học thiếu nhi nên đã nhiệt tình mời ông góp bài. Hơn thế, còn đề nghị nhà thơ tham gia chủ biên chuyên trang hằng tuần “Dành cho trẻ em” của báo. Chuyên trang này mở đầu từ năm 2010 và kết thúc năm 2016. Đó là một sản phẩm báo chí định kỳ lạ và hiếm, đã góp phần thúc đẩy hoạt động sáng tác thơ văn cho trẻ em, vì trẻ em.

pda.jpg

Thơ đố đã có từ dân gian cổ truyền. Cũng có thơ đố hiện đại nhưng thường tồn tại bằng câu, cụm câu. Trên sách báo lâu nay cũng có thơ đố viết thành từng bài.Tác giả Phạm Đình Ân làm khác, độc đáo. Ông tổ chức những nhóm bài được liên kết hệ thống thành một cuốn sách có bố cục chặt chẽ. Lời giải đặt ngược ở cuối sách, cũng là việc lạ, xưa nay chưa ai làm, hóm hỉnh, bất ngờ. Ông có ý nói rằng các bạn nhỏ hãy kiên nhẫn giải đố, thấy khó thì nhờ người lớn giúp đỡ, đừng láu táu mở lời giải ra. Đấy là một chi tiết giáo dục thẩm mỹ về kỹ năng sống cho trẻ em đầy khéo léo, thâm thúy.

Sách có 32 bài đố bằng thơ lục bát, kèm 32 cụm văn xuôi là lời giải. Phần I: Từ đầu qua bụng xuống chân gồm 17 bài đố về các bộ phận thân thể con người (nhìn phía ngoài) lần lượt từ trên xuống dưới: đầu, tóc, mặt, mắt, tai, mũi, răng, miệng, lưỡi, cổ, vai, da, tay, bụng, lưng, ruột, chân. Phần II: Miên man cái biết mọc mầm, trổ hoa, gồm 15 bài đề cập các sự việc thông thường: nói, cười, hát, đi, đứng, ngồi, chạy, nằm, trông, nghe, hỏi, học, làm, ăn, chơi.

Điều đáng chú ý là hầu hết các bài thơ, câu đố, tác giả không dừng lại ở việc nêu đơn giản nguyên gốc sự vật - hình ảnh (ở phần I), sự việc - hoạt động (ở phần II) mà dùng các biện pháp ẩn dụ, hoán dụ... để liên tưởng nhằm mở rộng nội dung. Sự vật, sự việc đưa ra ở nhan đề bài thơ chỉ là cái cớ để sáng tạo thơ, đó là tứ thơ được hình ảnh hóa. Thí dụ nói về cái đầu thì tác giả ngầm hướng người đọc đáp lại là: “đầu tiên, đầu bạc răng long, đầu tàu, đầu đàn, đầu sóng ngọn gió, đầu mối, đầu gối, đầu tắt mặt tối, đầu cua tai nheo, đầu trộm đuôi cướp, đầu thú, đầu trâu mặt ngựa, đầu têu”. Xin dẫn ra 2 câu:

Đầu gì từ ấy tỏa đi?
Đầu gì đã mỏi là khi muốn ngồi?
(Đáp: đầu mối, đầu gối)

Hoặc hỏi Nói gì?, bài thơ đố gợi ý trả lời là: “Nói lời phải giữ lấy lời/ Đừng như con bướm đậu rồi lại bay, nói có sách mách có chứng, nói như đinh đóng cột, nói một đằng làm một nẻo, nói ngọt, nói lái, nói vuốt đuôi, nói ngang, nói hươu nói vượn, nói toạc móng heo, nói đãi bôi, nói cứng, nói khích, nói kháy, nói mát, nói kiến trong lỗ bò ra”. Xin dẫn ra 2 câu:

Nói gì không dọc không xuôi?
Nói gì khoác lác thú nơi rừng già?
(Đáp: nói ngang, nói hươu nói vượn)

Thơ lục bát của Phạm Đình Ân rất trau chuốt, hoàn toàn khớp vần. Từ trước đến nay ông đã làm đến nghìn câu lục bát dành cho trẻ nhỏ. Thơ đố bằng lục bát dễ phạm nhược điểm là trúc trắc, gượng gạo (do vướng vào việc gợi câu trả lời). Đối với Phạm Đình Ân, ông viết thanh thoát, uyển chuyển, bổng trầm, ngân nga như chơi, như giỡn đùa với cây lá gió trăng vậy. Hỏi Mũi gì?, có thơ: Đầu đứng dưới, lưỡi nằm trên/ đã không biết liếm sao bền nắng mưa? (Đáp: Lưỡi trai, mũ lưỡi trai). Hỏi Hát gì?, có thơ: Hát gì cái ngủ lơ mơ/ Trăng sương dời dợi bãi bồi ca dao? (Đáp: Hát ru, hát ru con). Hỏi Học gì?, có thơ: Học chi chân bước xa gần/ miên man cái biết mọc mầm trổ hoa? (Đáp: Đi một bước đàng, học một sàng khôn).

Tập thơ đố đã gợi ý cho bạn đọc sử dụng gần trăm câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao, cùng lời nói hàng ngày thú vị, đậm chất văn chương để giải đố. Thống kê cho thấy khi hỏi về cái đầu, tác giả đã gợi ý sáu thành ngữ; bài Tay gì? có năm thành ngữ, một tục ngữ; bài Nói gì? có sáu thành ngữ, một tục ngữ; bài Trông gì? có hai thành ngữ, một tục ngữ, một lời ca dao; bài Ăn gì? có năm thành ngữ, ba tục ngữ, một lời ca dao. Cụ thể, bài Ăn gì? ẩn giấu thành ngữ, tục ngữ và ca dao như sau: Ăn nhờ ở đợ (thành ngữ), Ăn sóng nói gió (thành ngữ), ăn ốc nói mò (thành ngữ); Ăn trông nồi, ngồi trông hướng (tục ngữ), Ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối (tục ngữ); Ăn quả nhớ kẻ trồng cây (ca dao).

cau-do-meo.jpg

Có thể nói “Vui cùng thơ đố” đạt được hiệu quả nghệ thuật cao, góp phần đẩy thơ đố và tập thơ lên một bước phát triển mới. Ngoài ra, thơ đố của Phạm Đình Ân còn kích thích sự ham hiểu biết về thơ của trẻ; giúp trẻ trau dồi ngôn ngữ văn chương, hiểu thêm văn hóa dân gian thông qua thành ngữ, tục ngữ, ca dao… cũng như biết yêu quý, trân trọng thể thơ lục bát dân tộc. Bên cạnh đó, tập thơ còn giúp trẻ nâng cao kiến thức về đời sống và ý thức về tình yêu gia đình, cộng đồng./.

Bài liên quan
  • Thêm một nỗi niềm cho Tây Bắc
    Trước khi đọc “Ta còn em Tây Bắc” của Nguyễn Việt Chiến, tôi tự hỏi: đây là bài thơ viết về điều còn lại của “ta” hay là bài thơ ngợi ca Tây Bắc? Nhưng có lẽ, bài thơ không đơn thuần gợi mở chừng ấy cách nghĩ.
(0) Bình luận
  • Hai thể thơ mới namkau và 1-2-3 trong lịch sử phát triển của các thể thơ dân tộc
    Khoảng mươi năm gần đây, trên thi đàn Việt xuất hiện hai thể thơ mới: namkau và 1-2-3. Là sản phẩm của thế kỷ công nghệ số, những thể thơ này còn đang ở thời kỳ phôi thai trứng nước.
  • Văn Cao, mùa bình thường...
    Văn Cao là một người tài hoa. Gọi ông là nhạc sĩ, thi sĩ hay họa sĩ đều được. Song tôi nghĩ, gọi ông là nhạc sĩ vẫn chuẩn xác hơn cả, bởi đó là điểm khởi đầu cũng là lĩnh vực ông bộc lộ tài năng nhất và cũng thành công nhất. Nhưng hãy khoan bàn về điều này, tôi muốn phác họa đôi nét về con người Văn Cao qua ấn tượng của mình sau hai lần gặp gỡ...
  • GS.TS Kiều Thu Hoạch: Người cần mẫn nghiên cứu văn hóa dân gian
    GS.TS Kiều Thu Hoạch năm nay bước sang tuổi 92. Đi qua hành trình gần trọn một thế kỷ, ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị. Đó là sự kết tinh trí tuệ của một học giả Hán Nôm uyên bác cùng hành trình trải nghiệm học thuật và cả sự tiếp xúc với các bậc túc nho nhiều thế hệ. Những công trình ấy đã mở ra nhiều hướng tiếp cận khả thi trong nghiên cứu lịch sử, văn hóa Việt Nam.
  • Miền ký ức vọng về từ mùa thu Hà Nội
    Thủ đô Hà Nội mùa nào cũng đẹp, nhưng có lẽ đẹp nhất vẫn là mùa thu. Trong nhiều thi phẩm viết về Hà Nội, “Mùa thu về Hà Nội” của Mạc Phương là một bài thơ giàu chất trữ tình, gợi mở bức tranh mùa thu thơ mộng, đồng thời chan chứa nỗi niềm yêu thương, hoài niệm về một mối tình xưa.
  • Có một mùa thu vẫn còn thơ bé
    Khi những vạt nắng xanh non tháng Chín lung linh nhảy múa bên thềm nhà, bọn trẻ con đã bắt đầu vào năm học mới, lòng tôi lại rộn lên những cảm xúc bâng khuâng khó tả. Trong tâm trí, tôi thấy nhảy nhót những trang sách giáo khoa thời tiểu học, với hình ảnh con gà, con mèo, bắp cải, con trâu... lần lượt ùa về.
  • Để văn học Thủ đô tiếp tục khẳng định vị thế
    Song hành với thành tựu phát triển kinh tế, chính trị của Thủ đô 80 năm qua, Thành phố Hà Nội đang nỗ lực xây dựng hình ảnh một đô thị thanh lịch, văn minh, trong đó chiều sâu văn hóa được thể hiện qua các tác phẩm văn học nghệ thuật (VHNT) gắn bó với đời sống nhân dân Thủ đô. Nói riêng về diện mạo văn học, bên cạnh những thành tựu to lớn mà các nhà văn Hà Nội đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ thì các tác phẩm văn học có quy mô và chất lượng cao ở thời kỳ đổi mới vẫn còn thưa vắng, thậm chí mờ nhạt. Nhìn lại chặng đường sáng tạo văn chương của các nhà văn dưới mái nhà chung - Hội Nhà văn Hà Nội, đặc biệt trong 20 năm trở lại đây có thể thấy rõ điều đó.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Ra mắt tác phẩm đặc sắc của nhà văn Séc Arnošt Lustig
    Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam vừa phát hành bản dịch tiếng Việt của tiểu thuyết “Lời nguyện cầu cho Katerina” của nhà văn Séc Arnošt Lustig (1926–2011). Đây là một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng nhất viết về thảm họa Holocaust do dịch giả Bình Slavická chuyển ngữ.
  • Tôn vinh tinh hoa văn hóa các dân tộc Việt Nam tại “Ngôi nhà chung”
    Từ ngày 1 đến 30/11/2025, tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội) sẽ diễn ra chuỗi hoạt động tháng 11 với chủ đề “Đại đoàn kết - Tinh hoa văn hóa các dân tộc Việt Nam”.
  • Tái hiện sinh động tinh hoa di sản múa cổ Thăng Long - Hà Nội
    Tối 31/10/2025, tại Sân khấu Không gian Biểu diễn Nghệ thuật - Ẩm thực đường phố phường Tây Hồ (phố đi bộ Trịnh Công Sơn, đường Lạc Long Quân, quận Tây Hồ, Hà Nội), Hội Nghệ sĩ Múa Hà Nội tổ chức Chương trình biểu diễn “Bảo tồn và phát huy nghệ thuật múa cổ truyền Thăng Long - Hà Nội năm 2025”. Đây là hoạt động trong khuôn khổ Đề án “Sưu tầm, bảo tồn và phát huy nghệ thuật múa cổ truyền Thăng Long - Hà Nội” do Hội Nghệ sĩ Múa Hà Nội triển khai năm thứ hai.
  • Phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và con người Việt Nam
    Hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã công bố toàn văn các dự thảo văn kiện để lấy ý kiến rộng rãi của các tầng lớp Nhân dân, cán bộ, đảng viên. Đây là bước đổi mới quan trọng trong phương thức lãnh đạo, thể hiện tinh thần dân chủ, công khai và cầu thị của Đảng ta.
  • UNESCO vinh danh Danh nhân văn hoá Lê Quý Đôn
    Danh nhân Lê Quý Đôn sinh ngày 02/08/1726, mất ngày 11/06/1784, tại làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam (xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, nay là xã Lê Quý Đôn, tỉnh Hưng Yên).
Đừng bỏ lỡ
Độc đáo thơ đố của Phạm Đình Ân
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO