Lý luận - phê bình

Thêm một nỗi niềm cho Tây Bắc

Lời bình của Hương Giang 15/05/2024 21:01

Trước khi đọc “Ta còn em Tây Bắc” của Nguyễn Việt Chiến, tôi tự hỏi: đây là bài thơ viết về điều còn lại của “ta” hay là bài thơ ngợi ca Tây Bắc? Nhưng có lẽ, bài thơ không đơn thuần gợi mở chừng ấy cách nghĩ.

anh-tay-bac-2.jpg

Ngược rừng lên Tây Bắc
Những lũng, đèo mù sương
Núi như ngàn vò rượu
Xếp ngổn ngang bên đường


Em là men rượu lá
Tiếng khèn mùa trăng xưa
Để tình anh Tây Bắc
Thơm nếp xôi bốn mùa


Mắt mòn chiều vó ngựa
Áo chàm em về đâu
Những cánh rừng thổ cẩm
Mộc Châu rồi Yên Châu


Ta nhớ em Tây Bắc
Hoa ban chiều như mưa
Những người lính nằm lại
Mường Thanh xanh đến giờ


Họ như vừa ngã xuống
Tiếng khèn kia trên môi
Vầng trăng xưa còn đợi
Vó ngựa xưa trên đồi


Ta còn em… như họ
Mùa ban rừng tháng năm
Qua nhọc nhằn đá núi
Mơ giấc mơ vĩnh hằng

Ta còn em Tây Bắc - Nguyễn Việt Chiến

Trước khi đọc “Ta còn em Tây Bắc” của Nguyễn Việt Chiến, tôi tự hỏi: đây là bài thơ viết về điều còn lại của “ta” hay là bài thơ ngợi ca Tây Bắc? Nhưng có lẽ, bài thơ không đơn thuần gợi mở chừng ấy cách nghĩ. Bởi nếu chỉ nghĩ “ta còn em” thì sẽ gợi sự mất mát quá nhiều trong chủ thể trữ tình, mà để tâm quá nhiều vào một Tây Bắc được khắc họa bằng những nét đặc trưng của xứ sở thì sẽ làm mờ đi dụng ý tâm tư của người viết. Có lẽ đó chỉ là cú chạm ban đầu với tác phẩm khi những suy đoán đều mang tính chủ quan.

Ngay từ nhan đề, điều gì đã tự gợi mở? Đó là cách diễn đạt khẳng định: “Ta còn em Tây Bắc”. “Ta” thoát khỏi “tôi” nhỏ bé, một bản ngã đã được mở rộng hay chăng là “chúng ta” - nhân xưng cho một cộng đồng, tập thể, lớn hơn là đất nước, dân tộc? Nhan đề gợi ra nhiều tầng nghĩa, có thể giải mã theo nghĩa ta mất hết, còn duy nhất em là điểm tựa, hoặc ta tự hào vì ta có em - một vùng Tây Bắc mang đậm dấu ấn bản sắc Việt như đã suy đoán ban đầu? Ở đây, “em”- “Tây Bắc” đóng vai trò đối tượng trữ tình, “ta” là chủ thể mang nhiều suy tư của kẻ lữ hành. Tuy nhiên, tên bài thơ vẫn là sợi chỉ nhỏ dẫn tới một cách để giải mã toàn bộ bài thơ, là tín hiệu đọc một bài thơ.

Mở đầu là một thi ảnh đẹp:

Ngược rừng lên Tây Bắc
Những lũng, đèo mù sương
Núi như ngàn vò rượu
Xếp ngổn ngang bên đường

Chủ thể không xuất hiện, ẩn giấu đi nhưng vẫn có thể hình dung được “ta” đang xê dịch trên hành trình “ngược rừng lên Tây Bắc”. Để miêu tả về nét đặc trưng của vùng núi, có lẽ từ “ngược” cũng đã đủ sức nặng để khái quát được toàn bộ hình ảnh của núi rừng. Nơi ấy luôn là sự hiện hữu của lũng đèo và sương mù giăng khuất. So sánh “Núi như ngàn vò rượu/ Xếp ngổn ngang bên đường” đã khiến cho những bức tranh tương ứng đồng hiện sinh động. Một bức là thiên nhiên trập trùng núi trập trùng mưa và những con đường. Một bức khác là cuộc trưng bày ngổn ngang “ngàn vò rượu”. Hình ảnh đẹp, mới lạ, độc đáo này vừa tái hiện được vẻ đẹp thuần túy, ban đầu của Tây Bắc vừa gửi được tình mê đắm, say sưa của lữ khách trên hành trình của mình.

Em là men rượu lá
Tiếng khèn mùa trăng xưa
Để tình anh Tây Bắc
Thơm nếp xôi bốn mùa

Cách định nghĩa “Em là men rượu lá” có gì gợi nét vừa giống vừa khác với “Em thà coi như hơi rượu say” của Thâm Tâm trong “Tống biệt hành”. Em là khởi nguồn của tình yêu, một chút men rượu lá hay một hơi rượu say cũng đủ khiến cho “ta” tương tư về “em” về thân phận hay một câu chuyện nóng rẫy tuổi đời. Vậy, cụ thể “em” là ai hay “em” là điều gì? Khổ thơ cho ta hình dung “em” trong cả tiếng khèn, mùa trăng xưa, trong nếp xôi bốn mùa. Nhưng bấy nhiêu thôi chưa đủ. Em có lẽ là cả một vùng Tây Bắc? Vậy “em” thực ra là một không gian văn hóa gần gũi mà thiêng liêng!
Khổ thơ tiếp theo không gian được mở rộng hơn, bức tranh đa chiều hiện diện và có sự dịch chuyển. “Mắt mòn chiều vó ngựa” là tình thế của sự chờ đợi. “Mắt mòn” bởi chờ đợi em, chờ đợi sự trở về trong tâm tưởng màu sắc của Tây Bắc, trở về trong “áo chàm”, “cánh rừng thổ cẩm”…

Những khổ thơ tiếp theo gợi nhắc về lịch sử. Từ đây mạch thơ biến đổi, giọng điệu lắng đọng, bình tâm và thấu hiểu hơn.

Ta nhớ em Tây Bắc
Hoa ban chiều như mưa
Những người lính nằm lại
Mường Thanh xanh đến giờ

Họ như vừa ngã xuống
Tiếng khèn kia trên môi
Vầng trăng xưa còn đợi
Vó ngựa xưa trên đồi

Một số hình ảnh được lặp lại như tiếng khèn, vầng trăng, vó ngựa… trầm lắng trong cơn mưa. Bởi tất cả vốn dĩ thuộc về quá khứ, nơi “những người lính nằm lại”. Họ vẫn hiện hữu trong giây phút này như vừa mới đây thôi, “xanh đến giờ”.

Tiếp nối mạch thơ đó, khổ kết đến như một lẽ tự nhiên:

Ta còn em… như họ
Mùa ban rừng tháng năm
Qua nhọc nhằn đá núi
Mơ giấc mơ vĩnh hằng

So sánh như là một biện pháp nghệ thuật chủ đạo của bài thơ, giúp tác giả dễ dàng gửi gắm một định nghĩa hay một liên tưởng sâu sắc. “Ta còn em… như họ”, nghĩa là ta còn Tây Bắc xanh tươi, còn hi vọng trong một chút tiếc thương xa xót và tự hào về xứ của những cuộc chiến hào hùng. Thêm nữa, đó cũng là xứ của những bản sắc đẹp, thiêng liêng vẫn luôn được gìn giữ vẹn nguyên. “Ta còn em” của vĩnh cửu, sức sống lâu bền. Hai câu kết khẳng định cho điều đó, dù chỉ là một giấc mơ của những kẻ lữ khách.

Vậy, “Ta còn em Tây Bắc” cũng có thể là một bài thơ để tưởng nhớ “họ”- những người lính xưa đã làm nên lịch sử Tây Bắc. Bằng cách gọi tên địa danh, “em” là nơi chứa những năm tháng thăng trầm của lịch sử. Ta còn lại em, tự hào về em.

Để cảm và thấu hiểu bài thơ dường như đó là quá trình lựa chọn những góc nhìn và cách diễn giải đa chiều của bạn đọc. Bài thơ đã không chỉ dừng lại ở những suy cảm bạn đầu mà còn khiến chúng ta có những xúc động đặc biệt trước những điều đẹp đẽ của Tây Bắc. Viết về đề tài Tây Bắc không còn mới, nhưng nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đã thành công khi gây được cảm xúc trong lòng độc giả trên tác phẩm của mình. Đó chắc hẳn đã là món quà quý dành cho người nghệ sĩ khi luôn đau đáu về quê hương đất nước!

Bài liên quan
  • Tiếp nối mạch nguồn, tạo sự bứt phá
    Giá trị VHNT Hà Nội - Huế - Thành phố Hồ Chí Minh là một bộ phận nền tảng quan trọng, mang ý nghĩa văn hóa, xã hội trong tiến trình phát triển của đất nước. Điều này được thể hiện rõ nét trên các lĩnh lực: văn học, văn nghệ dân gian, âm nhạc, mỹ thuật, nhiếp ảnh, sân khấu, điện ảnh, kiến trúc, múa. Nhìn lại chặng đường gần 50 năm kể từ ngày thống nhất đất nước của VHNT 3 thành phố, có thể thấy rõ những thành tựu và cả những mặt hạn chế tồn tại cần phải thay đổi để tiếp nối mạch nguồn, tạo sự bứt phá.
(0) Bình luận
  • Tổ quốc trong sáng tác của các cây bút trẻ
    Trong trái tim mỗi người con nước Việt, bóng hình đẹp đẽ và thiêng liêng, kiêu hùng và nhân hậu chính là Tổ quốc. Tổ quốc rạng ngời trên trang viết của bao thế hệ đi trước, rồi được kế thừa bởi thế hệ trẻ hôm nay. Mỗi tác giả có một cách thể hiện khác nhau về đề tài Tổ quốc, mỗi tác phẩm là một nét vẽ riêng về dáng hình Việt Nam, góp phần hình thành nên diện mạo chung của đất nước tráng lệ và linh thiêng trong văn chương nghệ thuật. Tiếp nối sự thành công và dấu ấn sâu đậm mà những cây bút thời kỳ trước ma
  • “Ngày về” - lời ru giàu cảm xúc về làng quê Việt Nam
    “Ngày về” được mở đầu bằng hình ảnh quen thuộc, dễ nhận thấy nhất của làng quê Việt Nam với những giá trị truyền thống thiêng liêng: “Cây đa, bến nước, sân đình/ Con đường gạch lát nối tình xóm thôn”.
  • “Bay qua Hồ Gươm” - trò chuyện cùng Hà Nội, về Hà Nội
    “Mơ là bồ câu trắng/ Bay qua Hồ Gươm xanh”, tác giả Huỳnh Mai Liên đã bật lên khao khát muốn được trở thành cánh chim nhẹ nhàng và tự do khám phá bầu trời Hà Nội ở cuối bài thơ Bay qua Hồ Gươm (cũng là tên tập thơ). Dường như cũng từ giấc mơ này, nhà thơ đã viết ra những vần thơ kể chuyện dẫn lối người đọc ngắm nhìn Hà Nội từ cao đến thấp, từ xa đến gần.
  • Thơ truyền thống trong thời đại số
    Thơ truyền thống là loại thơ viết theo đúng niêm luật, thường bó buộc trong các thể loại: Lục bát, Đường luật (Nhất, tam ngũ bất luận), song thất lục bát, thơ (bốn, năm, sáu, bẩy, tám) chữ… phải có vần điệu, cấu tứ rõ ràng và ngôn từ là phương tiện để nhà thơ biểu đạt, giãi bày tình cảm, tư tưởng tinh thần của tác giả. Trong thời đại số, thơ truyền thống vẫn được nhiều tác giả tiếp nối nhưng theo một hình thức mới, nội dung mới và nhà thơ không bị giới hạn bởi bất kỳ khuôn phép nào.
  • 50 năm văn học Việt Nam từ 1975: Thành tựu và xu thế
    Hội nghị Lý luận, phê bình Văn học lần thứ V diễn ra ngày 27/11 tại Hà Nội, quy tụ những nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ và nhà phê bình hàng đầu. Với chủ đề “50 năm văn học Việt Nam từ 1975: Thành tựu và xu thế”, hội nghị đã làm nổi bật bức tranh toàn cảnh văn học Việt Nam...
  • Thị trường nghệ thuật Việt Nam: Chuyên nghiệp để bứt phá
    Nghệ thuật Việt Nam gần đây thu hút sự chú ý đáng kể trên thị trường trong và ngoài nước. Các tác phẩm của nghệ sĩ Việt Nam không chỉ được công nhận về mặt giá trị nghệ thuật mà còn đạt được mức giá cao, phản ánh sự gia tăng sức hút và quan tâm của các nhà sưu tầm, người yêu mỹ thuật, cũng như các hãng đấu giá quốc tế.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
Thêm một nỗi niềm cho Tây Bắc
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO