Thêm một nỗi niềm cho Tây Bắc
Trước khi đọc “Ta còn em Tây Bắc” của Nguyễn Việt Chiến, tôi tự hỏi: đây là bài thơ viết về điều còn lại của “ta” hay là bài thơ ngợi ca Tây Bắc? Nhưng có lẽ, bài thơ không đơn thuần gợi mở chừng ấy cách nghĩ.
Ngược rừng lên Tây Bắc
Những lũng, đèo mù sương
Núi như ngàn vò rượu
Xếp ngổn ngang bên đường
Em là men rượu lá
Tiếng khèn mùa trăng xưa
Để tình anh Tây Bắc
Thơm nếp xôi bốn mùa
Mắt mòn chiều vó ngựa
Áo chàm em về đâu
Những cánh rừng thổ cẩm
Mộc Châu rồi Yên Châu
Ta nhớ em Tây Bắc
Hoa ban chiều như mưa
Những người lính nằm lại
Mường Thanh xanh đến giờ
Họ như vừa ngã xuống
Tiếng khèn kia trên môi
Vầng trăng xưa còn đợi
Vó ngựa xưa trên đồi
Ta còn em… như họ
Mùa ban rừng tháng năm
Qua nhọc nhằn đá núi
Mơ giấc mơ vĩnh hằngTa còn em Tây Bắc - Nguyễn Việt Chiến
Trước khi đọc “Ta còn em Tây Bắc” của Nguyễn Việt Chiến, tôi tự hỏi: đây là bài thơ viết về điều còn lại của “ta” hay là bài thơ ngợi ca Tây Bắc? Nhưng có lẽ, bài thơ không đơn thuần gợi mở chừng ấy cách nghĩ. Bởi nếu chỉ nghĩ “ta còn em” thì sẽ gợi sự mất mát quá nhiều trong chủ thể trữ tình, mà để tâm quá nhiều vào một Tây Bắc được khắc họa bằng những nét đặc trưng của xứ sở thì sẽ làm mờ đi dụng ý tâm tư của người viết. Có lẽ đó chỉ là cú chạm ban đầu với tác phẩm khi những suy đoán đều mang tính chủ quan.
Ngay từ nhan đề, điều gì đã tự gợi mở? Đó là cách diễn đạt khẳng định: “Ta còn em Tây Bắc”. “Ta” thoát khỏi “tôi” nhỏ bé, một bản ngã đã được mở rộng hay chăng là “chúng ta” - nhân xưng cho một cộng đồng, tập thể, lớn hơn là đất nước, dân tộc? Nhan đề gợi ra nhiều tầng nghĩa, có thể giải mã theo nghĩa ta mất hết, còn duy nhất em là điểm tựa, hoặc ta tự hào vì ta có em - một vùng Tây Bắc mang đậm dấu ấn bản sắc Việt như đã suy đoán ban đầu? Ở đây, “em”- “Tây Bắc” đóng vai trò đối tượng trữ tình, “ta” là chủ thể mang nhiều suy tư của kẻ lữ hành. Tuy nhiên, tên bài thơ vẫn là sợi chỉ nhỏ dẫn tới một cách để giải mã toàn bộ bài thơ, là tín hiệu đọc một bài thơ.
Mở đầu là một thi ảnh đẹp:
Ngược rừng lên Tây Bắc
Những lũng, đèo mù sương
Núi như ngàn vò rượu
Xếp ngổn ngang bên đường
Chủ thể không xuất hiện, ẩn giấu đi nhưng vẫn có thể hình dung được “ta” đang xê dịch trên hành trình “ngược rừng lên Tây Bắc”. Để miêu tả về nét đặc trưng của vùng núi, có lẽ từ “ngược” cũng đã đủ sức nặng để khái quát được toàn bộ hình ảnh của núi rừng. Nơi ấy luôn là sự hiện hữu của lũng đèo và sương mù giăng khuất. So sánh “Núi như ngàn vò rượu/ Xếp ngổn ngang bên đường” đã khiến cho những bức tranh tương ứng đồng hiện sinh động. Một bức là thiên nhiên trập trùng núi trập trùng mưa và những con đường. Một bức khác là cuộc trưng bày ngổn ngang “ngàn vò rượu”. Hình ảnh đẹp, mới lạ, độc đáo này vừa tái hiện được vẻ đẹp thuần túy, ban đầu của Tây Bắc vừa gửi được tình mê đắm, say sưa của lữ khách trên hành trình của mình.
Em là men rượu lá
Tiếng khèn mùa trăng xưa
Để tình anh Tây Bắc
Thơm nếp xôi bốn mùa
Cách định nghĩa “Em là men rượu lá” có gì gợi nét vừa giống vừa khác với “Em thà coi như hơi rượu say” của Thâm Tâm trong “Tống biệt hành”. Em là khởi nguồn của tình yêu, một chút men rượu lá hay một hơi rượu say cũng đủ khiến cho “ta” tương tư về “em” về thân phận hay một câu chuyện nóng rẫy tuổi đời. Vậy, cụ thể “em” là ai hay “em” là điều gì? Khổ thơ cho ta hình dung “em” trong cả tiếng khèn, mùa trăng xưa, trong nếp xôi bốn mùa. Nhưng bấy nhiêu thôi chưa đủ. Em có lẽ là cả một vùng Tây Bắc? Vậy “em” thực ra là một không gian văn hóa gần gũi mà thiêng liêng!
Khổ thơ tiếp theo không gian được mở rộng hơn, bức tranh đa chiều hiện diện và có sự dịch chuyển. “Mắt mòn chiều vó ngựa” là tình thế của sự chờ đợi. “Mắt mòn” bởi chờ đợi em, chờ đợi sự trở về trong tâm tưởng màu sắc của Tây Bắc, trở về trong “áo chàm”, “cánh rừng thổ cẩm”…
Những khổ thơ tiếp theo gợi nhắc về lịch sử. Từ đây mạch thơ biến đổi, giọng điệu lắng đọng, bình tâm và thấu hiểu hơn.
Ta nhớ em Tây Bắc
Hoa ban chiều như mưa
Những người lính nằm lại
Mường Thanh xanh đến giờ
Họ như vừa ngã xuống
Tiếng khèn kia trên môi
Vầng trăng xưa còn đợi
Vó ngựa xưa trên đồi
Một số hình ảnh được lặp lại như tiếng khèn, vầng trăng, vó ngựa… trầm lắng trong cơn mưa. Bởi tất cả vốn dĩ thuộc về quá khứ, nơi “những người lính nằm lại”. Họ vẫn hiện hữu trong giây phút này như vừa mới đây thôi, “xanh đến giờ”.
Tiếp nối mạch thơ đó, khổ kết đến như một lẽ tự nhiên:
Ta còn em… như họ
Mùa ban rừng tháng năm
Qua nhọc nhằn đá núi
Mơ giấc mơ vĩnh hằng
So sánh như là một biện pháp nghệ thuật chủ đạo của bài thơ, giúp tác giả dễ dàng gửi gắm một định nghĩa hay một liên tưởng sâu sắc. “Ta còn em… như họ”, nghĩa là ta còn Tây Bắc xanh tươi, còn hi vọng trong một chút tiếc thương xa xót và tự hào về xứ của những cuộc chiến hào hùng. Thêm nữa, đó cũng là xứ của những bản sắc đẹp, thiêng liêng vẫn luôn được gìn giữ vẹn nguyên. “Ta còn em” của vĩnh cửu, sức sống lâu bền. Hai câu kết khẳng định cho điều đó, dù chỉ là một giấc mơ của những kẻ lữ khách.
Vậy, “Ta còn em Tây Bắc” cũng có thể là một bài thơ để tưởng nhớ “họ”- những người lính xưa đã làm nên lịch sử Tây Bắc. Bằng cách gọi tên địa danh, “em” là nơi chứa những năm tháng thăng trầm của lịch sử. Ta còn lại em, tự hào về em.
Để cảm và thấu hiểu bài thơ dường như đó là quá trình lựa chọn những góc nhìn và cách diễn giải đa chiều của bạn đọc. Bài thơ đã không chỉ dừng lại ở những suy cảm bạn đầu mà còn khiến chúng ta có những xúc động đặc biệt trước những điều đẹp đẽ của Tây Bắc. Viết về đề tài Tây Bắc không còn mới, nhưng nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đã thành công khi gây được cảm xúc trong lòng độc giả trên tác phẩm của mình. Đó chắc hẳn đã là món quà quý dành cho người nghệ sĩ khi luôn đau đáu về quê hương đất nước!