Check in Hà Nội

Làng Bát Tràng

Sơn Dương (t/h) 11:18 29/03/2023

Làng Bát Tràng xưa là phường Bạch Thổ, rồi đổi ra Bá Tràng và từ thời Lê gọi là Bát Tràng. Trước năm 1945 là xã Bát Tràng, tổng Đông Dư, huyện Gia Lâm, sau năm 1954 thuộc xã Quang Minh, huyện Gia Lâm - Hà Nội.

Nơi đây là làng gốm sứ nổi tiếng từ lâu đời, và cũng chính mảnh đất này đã từng sinh ra bậc khoa bảng lừng danh, đúng như hai câu thơ của Nguyễn Trãi:

Nên thợ, nên thầy nhờ có học
No ăn, no mặc bởi hay làm”.

Bát Tràng ngày nay là xã vùng ven của thủ đô Hà Nội, thuộc huyện Gia Lâm, gồm làng Bát Tràng và làng Giang Cao. Xã Bát Tràng ở bên tả ngạn sông Hồng, cách trung tâm Thủ đô khoảng 12km; bắc giáp xã Đông Dư, đông giáp xã Đa Tốn, nam giáp xã Xuân Quang, phía tây là sông Hồng, giáp huyện Thanh Trì - Hà Nội. 

Quá trình lập làng - nghề gốm sứ Bát Tràng nổi tiếng và lừng danh từ hơn nửa thiên niên kỷ

Nghề gốm sứ Bát Tràng gắn liền với quá trình lập làng. Hiện tồn tại nhiều tài liệu, tộc phả… về nguồn gốc làng Bát Tràng. Có cả truyền thuyết, chuyện kể... Một số sách gần đây về làng nghề Việt Nam và Hà Nội cũng đưa ra những cứ liệu không thống nhất. Về nguồn gốc hình thành làng Bát Tràng nêu dưới đây căn cứ vào tài liệu xét thấy logic và tin cậy.

Căn cứ vào nhiều sách cổ, các cổ vật thu lượm được khi đào sông Bắc - Hưng - Hải, các đồ vật khi khai quật di khảo cổ Mán Bạc thuộc tỉnh Ninh Bình thì Bát Tràng và Giang Cao đã được hình thành từ lâu đời.

Năm 1010 - vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Thăng Long. Thăng Long trên cơ sở Tống Bình - Đại La, trở thành trung tâm kinh tế văn hoá của cả nước. Việc xây dựng thành quách, cung điện, đền đài, nhà cửa thu hút nhiều thợ thủ công và nguyên vật liệu từ nhiều vùng. Theo ký ức, dòng họ Nguyễn Minh Tràng tức dòng họ Nguyễn ở Vĩnh Ninh và Tràng Yên thuộc Ninh Bình, có nghề làm gạch, đến lập nghiệp ở khu vạch Bạch Thổ, ven sông Hồng, nơi ở 72 gò đất sét trắng, nguyên liệu chủ yếu cho sản xuất gạch và làm gốm, sứ.

Cuốn tộc phả họ Trần do cụ Trần Lê Nhân, cháu đời thứ 16 của họ Trần chi tư, biên soạn, có ghi: “Cụ tổ nguyên quán tại xã Bồ Tát, trấn Thanh Hoa (nay là Thanh Hóa). Năm 30 tuổi, làng bị hoả tai, nhà cửa cháy sạch. Cụ tổ cùng 4 cụ trong làng, họ Vương, họ Lê, họ Phạm và họ Nguyễn đưa gia đình di cư ra phường Bạch Thổ, bãi sông Nhị Hà thuộc trấn Kinh Bắc sau thành làng Bát Tràng”.

Theo tộc phả họ Lê, khi các cụ rời Bồ Tát ra đây, ở Bạch Thổ đã có một dòng họ Nguyễn (ông tổ Nguyễn Minh Tràng) là người gốc làng sở tại. Vì thế theo quy ước, khi hội làng, chỉ họ Nguyễn này được đi cửa giữa mà thôi.

Tại đình làng Bát Tràng, hiện còn một câu đối nói về gốc tích làng nghề gốm:

Bồ di thủ nghệ khai đình vũ,
Lan nhiệt tâm hương bái thánh thần.

Tạm dịch:

Từ làng Bồ rời nghề cũ tới, xây dựng đình vũ
Lòng dân như hoa lan thơm ngát kính tạ thánh thần.

Trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi viết đầu thế kỷ XV đã ghi: “Làng Bát Tràng làm nghề bát chén”. Không rõ là hai câu thơ của Nguyễn Trãi: “Nên thợ, nên thầy nhờ có học/No ăn, no mặc bởi hay làm, là xuất phát từ nếp sống văn hoá của dân làng Bát Tràng hay là nhờ sự chỉ giáo của Nguyễn tiên sinh mà dân làng Bát Tràng đã từ nhiều đời được no ăn, no mặc bởi hay làm. Làng Bát Tràng không có người thất nghiệp. Người nghèo là dân ngụ cư đến tìm việc làm. Đàn ông làng Bát Tràng làm hai nghề chính là văn chương, dạy học, dạy nghề và làm thợ. Đàn bà làm nghề buôn bán ở chợ ven sông, một số ít người cũng là những thợ tài hoa, khéo tay vuốt bát và khéo vẽ.

Theo sách “Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam” của thạc sĩ Bùi Văn Vượng (NXB Văn hoá - Thông tin, H, 2002) đã ghi như sau:

“Theo các thư tịch cổ và truyền thuyết dân gian thì nghề gốm xuất hiện ở Bát Tràng từ thế kỷ XV, dưới thời Trần. Lúc bấy giờ, ở vùng đất ven sông Hồng phía dưới kinh thành Thăng Long này bắt đầu trở thành nơi định cư của những thợ gốm từ làng Bồ Bát, tỉnh Thanh Hoá tới. Làng Bồ Bát trước đó còn có tên là Bạch Bát. Cho nên khi mới đến lập nghiệp ở vùng này dân Bồ Bát đặt tên cho quê mới của mình là Bạch Thổ Phường, tức Phường đất trắng. Đất trắng là một thứ đất sét màu trắng dùng làm đồ sành (gốm sành hay gốm đàn) rất tốt.

Một thời gian sau, chắc hẳn công việc sản xuất gốm đã đi vào thế ổn định (?), bà con ở đây lại đổi tên Bạch Thổ Phường thành Bát Tràng Phường, ý nói là Phường có trăm lò bát. Rồi cuối cùng họ mới đổi tên thành Bát Tràng (tức nơi làm bát). Sách Đại việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên đã cho biết: Bát Tràng có tên là xã Bát, làng Bát từ đời nhà Trần. Và thế là suốt 500 năm nay, làng nghề này vẫn giữ tên làng Bát Tràng” (tr.79, sách đã dẫn ở trên).

Nghề gốm sứ Bát Tràng đã từng nổi tiếng trong nhiều thập kỷ, và ngày nay tiếp tục khởi sắc...

Sau cuộc kháng chiến chống quân Minh, đất nước ta bước vào thời kỳ xây dựng mới (nay chính sử gọi là thời Lê sơ). Dưới thời Lê sơ, nghề gốm ở Bát Tràng được khôi phục nhanh chóng trước khí thế mới của đất nước. Trong cuốn “Dư địa chỉ - bộ sách địa lý cổ quý giá của nước ta còn lại đến nay của Ức Trai tiên sinh - đã cho ta biết: “Trong số đồ cống nạp phong kiến phương Bắc “làng Bát Tràng phải cung ứng 70 bộ bát đĩa”. Kể cũng lạ, vì nước Minh có nghề làm gốm men phát triển và nổi tiếng thế, thế mà lại nhận đồ cống bằng gốm men của Việt Nam?

Từ thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, một vài dấu hiệu đáng mừng đã tìm được ở bên trong con đê ngăn nước sông Hồng, thuộc xã Đa Tốn, cách Bát Tràng chưa đầy hai cây số. Đó là những sưu tập đồ gốm men rất đáng lưu tâm để giúp ta gián tiếp tìm đến quá khứ nghề gốm Bát Tràng. Xã Đa Tốn, vốn không phải là xã có nghề gốm truyền thống, nhưng ở bên cạnh Bát Tràng - một “thị trường gần” thế nào mà chẳng tồn đọng những phế phẩm của lò gốm xưa? Đa Tốn cũng thấy những vật phẩm bằng gốm của nhiều thời đã qua. Trong số đó, cần nhắc đến loại hũ bé có men ngà hay xanh rêu, chỉ phủ 2/3 thân gốm và loại bình rượu có niên đại khoảng thế kỷ VI - VII. Trên vai bình có trang trí đắp nổi vài mún nhỏ, xen kẽ một băng gồm 12 con chim đắp nổi, xếp ngược chiều kim đồng hồ, kèm với một băng những hình chữ S cuộn tròn. Rồi các sưu tập đồ gốm men khác cứ dần dần xuất lộ từ lòng đất làng Đào Xuyên, Lê Xá... thuộc về thời Trần và Lê sơ. Đó là kiểu dáng bát, đĩa, âu, mảnh bệ tượng có trang trí nổi hoa cúc, sen, hoa dây cách điệu... phủ men ngọc xanh hay men đàn vàng ngà mà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều dấu tích tương tự ở Hoa Lư (Ninh Bình), ở Vân Đồn (Quảng Ninh)... lại có cả bát và đĩa nung chưa chín, có vết rạn cong vênh, rõ ràng là loại thứ phẩm của lò gốm. Bên cạnh đó là nhiều lon sành các cỡ, dễ chừng là những bao nung? Thú vị hơn là những chậu gốm men với bố cục hoa dây cách điệu hình sin khắc chìm rồi tô men nâu; những chiếc đĩa hoa lam cỡ lớn nền trắng ngà, hoa văn trang trí đơn giản chỉ là một bông hoa xung quanh vài cành lá xanh màu thì vẽ bằng bút lông mềm mại.

Để tìm về nghề gốm Bát Tràng xưa, chúng ta còn có thể tìm hiểu qua các vật phẩm lưu giữ ở nước ngoài. Những nguồn thông tin khảo cổ học, tới nay cho biết 55 bảo tàng trên thế giới còn lưu giữ không ít đồ gốm cổ Việt Nam như Nhật Bản, Philippin, Pháp, Bỉ, Thổ Nhĩ Kỳ... Trong số đó chắc hẳn còn nhiều tiêu bản có xuất xứ là nơi sản xuất là lò gốm Bát Tràng. Có người nghiên cứu nước ngoài đã tìm mối quan hệ giao lưu văn hoá từ những đồ gốm men trên các dữ kiện về kiểu dáng và trang trí.

Xem tài liệu giới thiệu: Cuộc triển lãm do hội gốm sứ Đông Nam Á tổ chức tại Bảo tàng quốc gia Singapo, tổ chức vào tháng 6 năm 1982, ta thấy nhiều bức ảnh chụp bát, đĩa chứng minh về quan hệ giao thương của đồ gốm Việt Nam với Thái Lan, Nam Trung Quốc và Nhật Bản. Tiêu biểu là loại đĩa to vẽ hoa lam mà theo ghi chú dưới bức ảnh chụp cho biết - thì loại hoa vẽ men lam bằng bút lông của Việt Nam rất giống Sukhothai (Thái Lan) (Hiện vật do Bảo tàng Nghệ thuật châu Á của Trường Đại học Tổng hợp Malaysia lưu giữ).

Điều thú vị hơn, tuy nay không còn rõ dấu vết một chiếc lò nung của Bát Tràng ở 3 thế kỷ XVI, XVII, XVIII dưới triều Lê - Tây Sơn nhưng tại nhiều đình chùa trong nước hay ở các bảo tàng quốc gia ta còn có thể gặp nhiều vật phẩm cho biết rõ họ tên người thợ và quê quán của họ cùng niên hiệu của triều vua đương thời trị vì. Thí dụ như chiếc chân đèn lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, được ghi rõ bằng men lam, cho biết nó được chế tạo vào ngày 24 tháng 6 năm thứ 3 niên hiệu Diên Thành (1580), do đồng tác giả người Bát Tràng là Nguyễn Phong Lai và Hoàng Ngưu sáng tác và làm ra.

Sang thế kỷ XVII, ở Bát Tràng vẫn phổ biến chế tạo các vật phẩm như chân đèn và lư hương cùng nhiều loại hình khác. Trong số ấy, ta cũng có thấy nhiều vật phẩm ghi rõ tác giả và quê quán tại Bát Tràng cùng năm tháng chế tạo.

Có trường hợp, như phần dưới của một chân đèn - cùng loại chân đèn ở thế kỷ trước - cũng lưu trữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - còn cho biết rõ: người chế tạo là xã trưởng xã Bát Tràng, tên là Bùi Duệ, thời gian chế tạo vào năm thứ hai niên hiệu Hoằng Định (1602). Lại có chiếc chân đèn khác do sinh đồ Vũ Xuân tạo tác vào năm 1613.

Ngoài dòng gốm men vẽ lam phủ men trắng, ngay từ những năm đầu thế kỷ XVII, chính ở Bát Tràng đã chế tạo được đồ gốm men rạn rất đẹp. Chiếc chân đèn mang niên hiệu Hoằng Định của đời vua Lê Kính Tông (1600 - 1619) hiện đang trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, có kiểu dáng khá độc đáo, nhiều mẫu trang trí, hoa dây lá lật, lá công, lá đề (trong mỗi lá đề lại có một chữ vạn), bộ “tứ linh” (long, ly, quy, phượng). Tất cả các hoa văn này đều chạm nổi, trên một góc của phần dưới chân đèn, còn thấy hai dòng chữ Hán khắc chìm (chữ khắc trước khi đem vào nung chín) cho ta biết: người sáng tác và làm ra là Đỗ Phủ xã Bát Tràng. Với tiêu bản này chúng ta có lý do nói Việt Nam đã chế tạo được đồ gốm men rạn từ đầu thế kỷ XVII.

Theo dõi sưu tập đồ gốm men Việt Nam có niên đại ở Bảo tàng Lịch sử, chúng ta thấy xuất hiện nhiều vật phẩm gốm men rạn khác mang niên hiệu của những triều vua Lê kế tiếp như: Lê Huyền Tông, Lê Hy Tông, Lê Hiển Tông... Điều đó chứng minh rằng đồ gốm men rạn ở Bát Tràng có quá trình phát triển qua hàng thế kỷ.

Đến thế kỷ XVIII, dưới triều Tây Sơn, nghề gốm men ở Bát Tràng còn phồn thịnh lắm. May sao, bây giờ chúng ta còn có thể hình dung về quang cảnh Bát Tràng ngay đó qua một bài thơ của Cao Huy Diệu. Trong một cuộc du xuân, ông đã kể lại cảm xúc khi đến Bát Tràng qua bài “Bát Tràng vãn bạc”. Dưới bài thơ ấy có lời “tiểu dẫn” của ông cho biết “năm Giáp Dần (1791) tôi đi chơi, bèn đáp thuyền buôn đi cùng. Đúng trưa, đậu thuyền ở bến Bát Tràng, thấy chợ phố đông đúc, hàng bầy đầy ắp, mái chèo đi lại tới tấp, ngoài bờ sông một bãi dâu xanh mướt, cảnh xuân như vẽ:

Dịch:

Buổi trưa đậu thuyền ở Bát Tràng
Sông lớn dừng thuyền giữa bến ngang
Đến đây, lò bát, chốn quê hương
Sờ sờ đất mới làm roi nổi
Thăm thẳm nương dâu bãi bạt ngàn
Đi lại lối quen nơi phát đạt
Bán buôn tấp nập khách giàu sang…

Trong số những đồ gốm men có ghi niên hiệu triều Tây Sơn còn lưu giữ được tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, chúng ta đã gặp hai chiếc bát to có ghi bốn chữ Hán dưới đế: Quang Trung niên tạo, có nghĩa là chế tạo trong khoảng niên hiệu Quang Trung (1788 - 1792).

Cả hai chiếc bát đều có đế rộng, chân thấp, lòng doãng, thành khum và miệng loe. Thành bên trong và ngoài bát đều phủ men rạn màu ngà vàng xám (chỉ xem lớp men rạn phủ, kiểu dáng và lối men vẽ, chúng ta đã có thể giả thiết về xuất xứ của chúng phải là lò gốm Bát Tràng rồi!).

Trong lòng bát không thấy có dấu kê hay vết khoanh lòng chứng tỏ nó được nung trong hộp riêng. Hộp do nhiều viên gạch vuông cỡ to xếp lại. Bên ngoài thành bát, một phía có vẽ khóm trúc bằng men lanh và phía đối diện viết hai hàng chữ Hán:

Vị xuất địa đầu tiên hữu tiết”

Nhiều đồ gốm có ghi niên hiệu Gia Long (1802 - 1819) còn lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam là bằng chứng sinh động về nghề gốm men Bát Tràng ở thời đầu nhà Nguyễn. Trên những vật phẩm: lộc bình, choé, ấm, đồ thờ, đồ gia dụng khác còn khá phổ biến trong nước, chúng ta vẫn thấy sự tiếp nối với kỹ thuật tạo dáng và trang trí của thời cuối Lê, Tây Sơn. Trên nhiều bình hay choé phủ men rạn, ta vẫn thấy sử dụng lối men xanh vào trang trí phong cảnh: chim bên hoa cúc, chim đậu cành trúc, bướm và hoa hồng, chim với hoa sen...

Cũng có tiêu bản đáng chú ý như chiếc bình tạo dáng một ống trúc. Người thợ như “sao chép” lại hiện thực ngay từ mẩu trúc cho đến một đôi cành lá hay một con chim chao cánh... còn loại bình lớn có hai bầu tròn cách nhau một đoạn thắt ngắng, miệng hình trụ cao thì đề tài xoay quanh các thứ của quý như: thanh bảo kiếm, cuốn thư, đỉnh trầm, túi gấm, trái phật thủ hay bông lựu, quả đào...

Từ sau Gia Long trở đi, nghề làm gốm men ở Bát Tràng bị kìm hãm và không thấy để lại những vật phẩm có ghi niên hiệu các vua nhà Nguyễn nữa. Ngược lại, các niên hiệu từ Minh Mạng đến Khải Định đôi khi chúng ta còn có thể thấy rải rác ở nhiều nơi, trên các vật phẩm gốm men đặt làm ở Trung Quốc. Chính điều này là nguồn nguyên nhân hạn chế sự phát triển nghề gốm của Bát Tràng.

Từ khi Hà Nội bị thực dân Pháp đánh chiếm tới ngày giải phóng Thủ đô, nghề gốm Bát Tràng bị chững lại, không có điều kiện phát triển.

Khi mới giải phóng Thủ đô, việc sản xuất gốm của Bát Tràng vẫn tập trung vào một số chủ lò. Để mở rộng sản xuất, đáp ứng nhu cầu mới của xã hội, năm 1959 thành lập Xí nghiệp Gốm Bát Tràng. Sau đó lần lượt hình thành các hợp tác xã: Hợp Thành (1962), Hưng Hà (1977), Hợp Lực (1972), Thống Nhất (1982), Ánh Hồng (1984), tiếp đó là Xí nghiệp X51 của quân đội và liên doanh ngành gốm sứ (thành lập vào 1984), xí nghiệp X54 của Cục hậu cần Quân khu Thủ đô (thành lập năm 1988).

Trong thời gian Mỹ đánh phá miền Bắc, các cơ sở sản xuất của Bát Tràng gặp nhiều khó khăn.

Từ sau 1973, nghề gốm sứ và Xí nghiệp Gốm Bát Tràng bắt đầu khôi phục. Tại đây, hình thành nhóm sản phẩm gốm sứ và Xí nghiệp Gốm Bát Tràng cũng đã có vai trò tích cực, ảnh hưởng tới sự phát triển nghề này. Khi đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, nhiều gia đình xây dựng lò nhỏ ở nhà, sản xuất gốm tư nhân phát triển. Đã bắt đầu dùng gas để thay thế than nên vừa có điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm, vừa tạo điều kiện giảm ô nhiễm môi trường.

Đất nước và Hà Nội bước vào thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá, nghề gốm sứ ở Bát Tràng phát triển làm cho Bát Tràng trở thành “một xưởng đồ gốm lớn”. Đến năm 2000, hầu hết trong số 1120 hộ của xã không làm nghề nông. Nghề gốm ở đây có khoảng 800 lò các cỡ, không kể lò tuynen. Tại xã, ngoài các xí nghiệp quốc doanh (X51, X54) và một số hợp tác xã như Hợp tác xã công nghiệp sứ Hợp Lực, còn hình thức các công ty trách nhiệm hữu hạn, trong đó có Ánh Hồng, Gốm sứ Bát Tràng, Vĩnh Thắng, Hanico, Quang Vinh... Hàng của Bát Tràng đã được xuất khẩu và có nhiều gia đình, và xí nghiệp đã đóng hàng xuất trực tiếp. Ngày nay, đến với Bát Tràng, ta không khỏi ngỡ ngàng trước một vùng quê làm nghề sứ gốm đang tiếp tục khởi sắc, sáng tạo, đa dạng hoá sản phẩm. Chợ gốm sứ Bát Tràng lúc nào cũng tấp nập người mua bán và khách du lịch thăm vùng sứ gốm nổi tiếng Việt Nam.

Một làng nghề văn hiến

Theo phong dao vùng Kinh Bắc thì ước mơ của nhiều chàng trai thiên hạ là “Sống muốn được làm trai Bát Tràng”, là:

Ước gì anh lấy được nàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây.
Xây dọc rồi lại xây ngang,
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân”.

Tại sao vậy? Vì trai Bát Tràng sống hào hoa phong nhã, chỉ lo việc học hành, làm thầy hay làm thợ giỏi. Gái Bát Tràng rất đảm đang tháo vát, buôn bán giỏi, khéo chiều chồng, nuôi dạy con cái, quán xuyến mọi việc nội trợ gia đình để chồng được yên tâm học hành.

Trên Tam quan Văn chỉ Bát Tràng có ba chữ bằng đá: “Ngưỡng Di Cao” (trông lên vời vợi). Trong Văn chỉ có bệ thờ Đức Khổng Tử và 72 học trò. Bên trên bệ là bức hoành phi có dòng chữ “Thiên địa đồng lưu” (trời đất cùng luân chuyển).

Trước kia mỗi khi họp làng văn, các quan viên coi việc Văn chỉ, thường đem hai bức trướng vóc ghi đủ họ và tên 364 vị khoa bảng của làng, treo lên trang trọng để mọi người chiêm ngưỡng. Đây là niềm tự hào của nhân dân Bát Tràng và cũng là để động viên con cháu cố gắng học hành nên người.

Phần mở đầu bản Hương ước của làng Bát Tràng có ghi:

“Lấy nhân đức khuyên bảo nhau, chớ kể giàu nghèo.
Lấy điều phải làm lẽ sống, chớ quên tự sửa mình.
Đối xử với nhau theo lễ tục, không được vi phạm.
Hoạn nạn giúp nhau, không được manh tâm lấn cướp”.

Trong các nhà thơ dòng họ thường có bức hoành phi đại tự “Ẩm hà tư nguyên” (Uống nước nhớ nguồn).

Những phương châm xử thế này đã được thể hiện rõ nét trong phong tục tập quán của làng:

Ngày mồng 6 tết Nguyên đán là lễ tảo mộ của các dòng họ. Người quê làng Bát từ thập phương trở về thắp nén hương trên phần mộ tổ tiên, gặp gỡ thăm hỏi nhau ngay tại nghĩa trang của làng. Khi giỗ Tổ họ, bất kỳ là họ Trần, họ Lê hay tất cả 18 dòng họ khác, trong mâm cỗ cúng, bao giờ cũng có cháo và cơm nắm. Các cụ già nói rằng ý nghĩa việc này là nhằm giáo dục con cháu sống phải có tình nghĩa thuỷ chung; khi giàu sang phải nhớ thuở hàn vi, dù khó khăn, đói rét cũng phải cưu mang lẫn nhau. Tục lệ của làng là ngồi ăn cỗ không chia ngôi thứ, hoà quang đồng trần. Cháo và cơm nắm dưới bàn tay nội trợ khéo léo của các bà, các chị làng Bát, bao giờ cũng là những món ăn đặc biệt hấp dẫn. Nó cũng đã được “hiện đại hoá” cháo thịt lợn nạc xay rất nhuyễn, cơm nắm gạo thơm, vừng, lạc bùi.

Những tên tuổi làm rạng rỡ quê hương

Thư tịch cổ và bia ký đã ghi chép được 364 người đỗ đạt từ “Tam trường” trở lên. Trong đó họ Giáp có 2 người, họ Cao 2 người, họ Đỗ 4 người, họ Bùi 6 người, họ Hà 14 người, họ Vũ 21 người, họ Phùng 23 người, họ Vương 45 người, họ Phạm 49 người, họ Lê 60 người, họ Trần 64 người, họ Nguyễn 74 người. Đặc biệt trong đó có 9 người đỗ từ tiến sĩ đến trạng nguyên và nhiều võ quan mà tên tuổi còn được khắc ghi trong vườn bia Văn Miếu - Hà Nội và Huế.

1. Trạng nguyên Giáp Hải (1506 - 1586) mở đầu cho danh mục khoa bảng của Bát Tràng. Ông là người có tài văn học, lại giỏi bang giao ứng đáp. Sử sách còn chép rằng: Vào năm Nhâm Ngọ (1574) vua nhà Minh cử Cửu Loan và Mao Bá Ôn dẫn một đạo quân hùng hổ kéo vào biên giới Lạng Sơn, kiếm cớ hỏi tội vua Mạc “dám coi thường phép tắc của thiên triều”. Mạc Đăng Doanh lo lắng bèn sai Giáp Hải lên ải Nam Quan đối phó. Sứ nhà Minh vừa muốn áp đảo lại vừa muốn thăm dò, bên làm một bài thơ nhan đề là “Vịnh cái bèo” để thử sứ ta. Tạm dịch nghĩa bản phiên âm:

Bèo mọc trong ruộng nước nhỏ như cái kim,
Đến mà xem rễ bám rất nông
Không có mầm, không có gốc, cũng không có lá
Tụ lại đấy, nhưng cũng tan ngay đấy.
Chỉ biết trôi nổi sao biết đến lúc chìm,
Chỉ cần một trận gió dữ,
Bị quét sạch ra hồ, ra biển không con vết tích gì nữa.
Giáp Hải nghe xong bài thơ, liền ứng khẩu đáp ngay.

Tạm dịch bản phiên âm:

Nét thêu dày xít cản mũi kim,
Lá liền gốc rễ, hà tính đến nông sâu,
Từng cùng mây trắng tranh mặt nước,
Đâu để mặt trời lột dưới đáy sâu.
Muôn trùng đợt sóng không pha nổi,
Vạn trận gió lay cũng chẳng chìm,
Biết bao rồng cá nằm trong đó,
Thái công hết cách thả lưỡi câu.

Bài thơ hoạ lại của Giáp Hải làm cho Mao Bá Ôn phải giật mình thức tỉnh, đành phải nhượng bộ kéo quân về.

Trạng nguyên tể tướng dẩu nan tuấn,
Quốc lão đế sư thiên hạ tôn.

Nghĩa là: Đỗ trạng nguyên, làm tể tướng danh cao như ngôi sao Bắc đẩu cõi trời Nam. Bậc quốc lão ở kinh đô được cả nước tồn kính.

2. Tiến sĩ Vũ Văn Tuấn (1806 - ?), kết thúc danh mục tiến sĩ làng Bát Tràng đến đời Tự Đức. Làm quan đến chức Án sát rồi được thăng lên Thị độc Viện Hàn lâm Phụng nghi đại phu, ông đã phụng mệnh đi sứ Tàu ba năm (1851 - 1853), được vua Tự Đức, cùng với thư khen, ban cho chiếc khánh vàng và một biển gỗ sơn son thếp vàng có 4 chữ “Cần lao khả lục” để thờ.

Vũ Văn Tuấn sống thanh bạch đến nỗi khi dựng vợ gả chồng cho con, không có tiền phải đi vay. Sống với làng quê có tình nghĩa. Năm làng sửa sang ngôi đình, tuy nghèo ông cũng tiến vào công quỹ 100 quan tiền và 4 trướng vóc, 3 chén ngọc, một.

3. Cử nhân Trần Lê Nhân (1887 - 1975): kết thúc danh mục khoa bảng cuối cùng đời Nguyễn. Ông đỗ cử nhân khoa Nhâm Tý (1912) tại trường thi Nam Định, sau đó được lần lượt bổ nhiệm làm việc tại Nha Học chính Hà Nội, làm Giáo phủ Quốc Oai (Sơn Tây), Kiểm học tỉnh Bắc Kạn, Đốc học tỉnh Vĩnh Yên, giảng viên Hán Nôm ở Đại học Tổng hợp Hà Nội (1945 - 1960). Từ khi nghỉ hưu đến khi ông mất (1961 - 1975) ông tiếp tục hàng ngày tự học, biên khảo, dịch sách và dạy học Hán Nôm cho nhiều sinh viên tại nhà riêng 248A phố Huế - Hà Nội.
Bát Tràng cũng là quê hương của Phạm Văn Tráng, hội viên của Việt Nam Quang phục Hội do cụ Phan Bội Châu khởi xướng. Ngày 13/4/1913, ông cùng đồng đội dùng tạc đạn giết chết tuần phủ Thái Bình gian ác Nguyễn Duy Hàn. Ông đã bị thực dân Pháp kết án tử hình. Tấm gương hy sinh dũng cảm của ông làm thức tỉnh lòng yêu nước của thanh niên cả nước và của dân làng Bát Tràng. Cảm phục nghĩa ấy, dân làng đã làm câu đối thờ:

Dịch nghĩa:

Sấm sét một tiếng vang, bọn gian tà mất mặt
Non sông muôn đời bền vững, hồn hiệp sĩ thơm hương.

Bác Hồ về thăm Bát Tràng

Ngày 20/2/1959, Bác Hồ về thăm Bát Tràng, thăm một số cơ sở sản xuất gia đình, thăm hợp tác xã gồm sứ Minh Châu, tìm hiểu những công đoạn sản xuất, Bác biểu dương nhân dân và nhắc nhở xã cần chú ý đến đường sá, giao thông, trồng cây để cải tạo môi trường. Cuối cùng Bác căn dặn “Làng Bát Tràng mới phải làm sao để trở thành một trong những làng kiểu mẫu ở nước Việt Nam mới, nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

Vâng theo lời Bác Hồ dạy và phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương, đoàn kết, bao dung, lao động cần cù và sáng tạo, Bát Tràng đã vượt qua nhiều khó khăn đạt được những tiến bộ trong từng chặng đường lịch sử.

Đất nước đang chuyển mình trong sự nghiệp đổi mới công nghiệp hoá và hiện đại hoá, Bát Tràng khởi sắc vươn lên trong cơ chế thị trường, phát triển mạnh, đồng đều các thành phần kinh tế, phát triển đa dạng mẫu mã sản phẩm mang đậm nét truyền thống và hiện đại, ngày càng được ưa chuộng cả trên thị trường trong nước và quốc tế.

Đến Bát Tràng ngày nay, mọi người rất tự hào về một làng cổ truyền bề thế, đường sá khang trang, hàng gốm sứ muôn màu muôn vẻ. Theo quy hoạch bảo tồn làng gốm sứ Bát Tràng, thành phố Hà Nội và huyện Gia Lâm, cùng bà con ở đây đã đầu tư làm lại những trục đường vào làng, mở chợ gốm sứ, chiếu sáng... Rồi đây, các đình và nhà tổ nghề được tôn tạo, nhà bảo tàng được xây dựng, càng được mở mang…, chắc chắn Bát Tràng là một chùm hoa đẹp của vùng gốm sứ nổi tiếng. Đây cũng là một địa danh tham quan nghiên cứu làng cổ Việt Nam, là điểm du lịch của người Việt Nam và khách nước ngoài khá bổ ích, hấp dẫn.

Theo Hà Nội Danh thắng và Di tích tập 01

Bài liên quan
  • Đền An Lãng
    Đền An Lãng (xã Văn Tự, huyện Thường Tín) là một ngôi đình cổ kính, được xây dựng ở phía tây của làng trên một khu đất cao ráo.
(0) Bình luận
  • Ô Quan Chưởng - Cửa ô cuối cùng của Hà Nội
    Cửa Ô Quan Chưởng nằm ở phía Đông thành Thăng Long xưa, hiện nay thuộc phường Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đây là một trong những cửa ô quan trọng của thành Thăng Long còn sót lại cho đến ngày nay. Chứng kiến biết bao biến đổi thăng trầm của Thủ đô, giữa phố phường Hà Nội nhộn nhịp hôm nay, Ô Quan Chưởng vẫn sừng sững uy nghiêm, khoác lên mình vẻ đẹp cổ kính, bình yên...
  • Bảo tàng Mỹ thuật ở giữa làng quê (huyện Ba Vì)
    Xứ Đoài là một vùng đất tối cổ - vùng địa văn hoá, địa thi hoạ - nơi mà con người có thể trải nghiệm đời mình trong hệ sinh thái tự nhiên của vùng đất, đi qua những truyền thuyết, cổ tích, để từ đó tạo nên tâm tính, giọng nói đặc trưng của con người xứ Đoài. Nắng và gió, núi và sông xứ Đoài đã gợi cảm hứng sáng tác cho một Tản Đà, một Quang Dũng và nhiều thi nhân, hoạ sĩ: từ Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí đến Sĩ Tốt, Nguyễn Tiến Chung, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng... và những thế hệ văn nghệ sĩ sau này, ở họ đều có những sáng tác xuất sắc về xứ Đoài.
  • Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày (huyện Phú Xuyên)
    Đi khắp các vùng miền của Tổ quốc, những cựu tù binh Phú Quốc đã sưu tầm kỷ vật, di vật, tranh ảnh có liên quan đến các nhà tù trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược mà đồng đội và các ông đã trải qua. Hơn 20 năm kiếm tìm và góp nhặt, Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày, do chính những người cựu tù năm xưa thành lập là những minh chứng chân thực về một thời oanh liệt và hào hùng của dân tộc.
  • Bảo tàng Quê hương phong trào chiếc gậy Trường Sơn (huyệnỨng Hoà)
    Hoà Xá là một làng quê nằm sát bờ tả sông Đáy, thuộc vùng ven chiêm trũng Khu Cháy. Nơi đây sớm có phong trào cách mạng ngay từ những năm 1930, là hậu phương trung thành của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hòa Xá được xem là quê hương của phong trào động viên thanh niên lên đường “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” và câu chuyện huyền thoại “chiếc gậy Trường Sơn”.
  • Khu Cháy, Bảo tàng Khu Cháy - một địa chỉ đỏ về truyền thống đấu tranh cách mạng ở Ứng Hoà, Phú Xuyên
    “Khu Cháy” là thuật ngữ để nói về một khu du kích trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp gồm 22 xã ở phía nam huyện Ứng Hoà và tây huyện Phú Xuyên, Hà Nội.
  • Bảo tàng Tổng cục II (quận Hoàng Mai)
    Toạ lạc tại số 322 đường Lê Trọng Tấn, quận Hoàng Mai, Hà Nội trên khuôn viên rộng 3.500m2, gồm 2 tầng nhà và phần trưng bày ngoài trời, Bảo tàng Tổng cục II hiện lưu giữ 5.830 hiện vật, trong đó có nhiều hiện vật quý hiếm gắn liền với cuộc đời hoạt động của nhiều chiến sĩ tình báo xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam. Với chức năng phục vụ công tác nghiên cứu, tham quan học tập, giáo dục truyền thống, Bảo tàng Tổng cục II chính thức được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận nằm trong hệ thống các bảo tàng cấp 2 toàn quân.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • “Ngày về” - lời ru giàu cảm xúc về làng quê Việt Nam
    “Ngày về” được mở đầu bằng hình ảnh quen thuộc, dễ nhận thấy nhất của làng quê Việt Nam với những giá trị truyền thống thiêng liêng: “Cây đa, bến nước, sân đình/ Con đường gạch lát nối tình xóm thôn”.
  • Nguyễn Đình Thi một bản lĩnh  văn hóa lớn
    Nguyễn Đình Thi là một nhà hoạt động cách mạng lão thành và là người làm văn học nghệ thuật đa tài, nhiều sáng tạo. Ông viết sách khảo luận triết học, viết văn, viết báo, làm thơ, soạn nhạc, soạn kịch, viết lý luận phê bình, và ở lĩnh vực nào, ông cũng thể hiện mình là một bản lĩnh văn hóa lớn. Những chia sẻ của nhà thơ Bằng Việt - nguyên Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, nguyên Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội, người đã tuyển chọn và dịch tác phẩm của Nguyễn Đình
  • Tuần lễ chiếu phim đặc sắc về Quân đội nhân dân Việt Nam
    Tuần phim Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 – 22/12/2024) sẽ diễn ra tại thành phố Cao Bằng (từ ngày 9/12 đến ngày 13/12) và trên phạm vi cả nước (từ 19/12 đến ngày 25/12).
  • Hội Điện ảnh Hà Nội: Nhiều hoạt động ghi dấn ấn trong năm 2024
    Sáng ngày 11/12, Hội Điện ảnh Hà Nội đã tổ chức Lễ tổng kết công tác năm 2024 và phương hướng hoạt động năm 2025.
  • Vinmec tiên phong mang công nghệ tiêu chuẩn quốc tế vào điều trị bệnh mề đay
    Bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec Times City (Hà Nội) là đơn vị đầu tiên của Việt Nam đạt chứng chỉ UCARE, khẳng định năng lực chuyên môn vượt trội trong chẩn đoán, điều trị và quản lý bệnh mề đay (mày đay) theo tiêu chuẩn quốc tế GA2LEN.
Đừng bỏ lỡ
Làng Bát Tràng
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO