Hà Nội đi sâu vào văn hóa dân gian có lẽ câu thơ của thi sĩ Huỳnh Văn Nghệ ở phương Nam viết từ hơn 60 năm trước, tự hào về Hà Nội trái tim thiêng liêng của mỗi người dân Việt. Theo cố GS Trần Quốc Vượng thì Hà Nội cách đây vài triệu năm là một địa hình võng sâu hàng nghìn mét. Vào thời kỳ đệ Tứ (từ một đến hai triệu năm), miền địa hình này được lấp đầy bởi các vật liệu rời vụn là sản phẩm bào phá từ các miền địa hình núi đồi lân cận đưa về. Vịnh biển được lấp đầy dần ở các cửa sông gọi là phá.
Theo các nhà khảo cổ học, vùng ngã ba sông Đuống, sông Hồng xưa đã từng là biển, nơi hội tụ phù sa để bồi đắp rộng dần ra tạo thành châu thổ Bắc Bộ mà đỉnh là Việt Trì. Giữa hai gờ sông Đuống và sông Hồng, người ta tìm được dấu vết nhiều dòng chảy, chứng tỏ ở cửa sông vùng của nó quá lớn. Kết quả của sự phân nhánh ấy là sông Hồng đã để lại cho Hà Nội những món quà kỷ niệm lúc tách dòng là Hồ Tây, Hồ Hoàn Kiếm. Có thể là một khu vực canh tác lúa nước sớm nhất trên châu thổ đồng bằng Bắc Bộ. Các công trình trị thuỷ cũng bắt đầu từ đây, nên mới có truyền thuyết Lạc Phi của Diệu Đế sinh ra một bọc nở ra 7 con rồng ấy bay về trời được Ngọc Hoàng Thượng Đế giao cho trách nhiệm cai quản vùng sông nước. Các thần theo lệnh Ngọc Hoàng giúp dân trị thuỷ trừ tai. Chính các thần đã linh ứng giúp vua Lý, vua Trần và vua Lê giữ vững được đê Yên Hoa không bị vỡ sau này, dân lập miếu thờ. Việc chống thuỷ tai diễn ra suốt dọc hai bên lưu vực sông Hồng, đặc biệt là từ Bạch Hạc trở về.
Trên các vùng đất ấy, hầu như các sự tích nói về cuộc đấu tranh của con người với lũ lụt là các cuộc đối mặt của các vua Hùng với những hiện tượng ấy. Trong chuyên Hùng Hải trị giặc nước, Lạc Long Quân cho ba con rồng giúp Hồng Hải trông coi một dải sông Thao để trấn giặc nước và lệnh cho Hùng Hải về cửa sông Nhị. Chuyện ấy cũng chỉ là truyền thuyết. Trang Hoa là vợ Hùng Hải có mang rồi sinh ra ba con rồng, vươn vai một cái bỗng trở thành ba chàng trai cao lớn, tuấn tú. Theo lệnh của ba anh em đi trị nhâm ba vùng thác ghềnh hiểm yếu ở Ngọc Tháp, Đào Xá và đầm Thọ Xuyên thuộc xã Dị Nâu, huyện Tam Nông, Phú Thọ. Các sự tích khác như Tuấn Cương và Quế Hoa đánh giặc nước, Ông Hộ giết thuồng luồng... đều nói về cuộc đấu tranh chống lũ lụt dưới thời Hùng Vương, nhưng không thấy bóng dáng của rồng. Rồng cai quản vùng sông nước quanh Hồ Tây, có thể là hình tượng của những con đê đã được so sánh .
Trong lịch sử dân tộc Việt con Rồng Việt khi được tôn thờ là tổ (Tô Tem) rồi trở thành người cha Lạc Long Quân, hư cấu theo tư duy nông nghiệp người Việt cổ lúc chuyển sang trồng lúa nước.
Sự tích kể mùa thu năm Canh Tuất (1010), Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Đại La với ý tưởng mưu toan nghiệp đô của muôn đời. Khi thuyền cập bến Giang Tân, vua cho thắp hương xin phù trợ thì bầu trời đang cao xanh lồng lộng, bỗng ửng hồng lên rồi xuất hiện một luồng khí từ hồ Tây bốc lên tạo thành hình. Rồng vàng cuồn cuộn bay lên cao. Các quan triều cho rằng Lạc Long Quân từ đất Long Đỗ hiển linh báo điềm lành còn nhà vua thì reo lên: Thăng Long... Thăng Long (rồng lên). Cũng từ đó Lý Công Uẩn cho xây dựng kinh thành đã lấy tên thành là Thăng Long. Đó lạ một biểu tượng về cái thế nước đi lên.
Hai chữ Thăng Long vang dội lên cùng với các chiến công đánh Tống bình Nguyên. Nó gắn liền với tín ngưỡng văn hoá Việt và trở thành một phần bản mệnh của nhà Vua, thể hiện quyền uy, sức mạnh của các bậc đế vương. Hình tượng con Rồng được các nghệ nhân, nghệ sĩ hư cấu sáng tạo, tạo nên cả một thế giới rồng đặc trưng cho mỗi triều đại khác nhau có mặt khắp trong các công trình kiến trúc của kinh thành và khắp cả trong các di tích đền chùa, đình, miếu, lăng tẩm. Điển hình nhất là 2 cặp rồng đá điện Kinh Thiên.
Hàng triệu lượt người đã được vào thăm quan, phòng triển lãm có trưng bày hiên vật, trong đó có nhiều hình tượng rồng ở kiến trúc và trong các đồ dùng của vua, chúa và hoàng hậu. Rồng điện Kính Thiên, nơi thiết triều từ trên xuống. Đầu khá to, mắt lồi, bờm mượt lượn ra phía sau. Sừng dài có nhánh, sống lưng nổi lên những vây lưng cao và sắc, hai cánh mũi căng phồng, chân mập như chân cá sấu, có móng. Đây đúng là tượng rồng sống động tiêu biểu thời Lê sơ (1428 - 1527). Xung quanh điện Kính Thiên từ nóc xuống đến các thềm lan can đều có trang trí Rồng. Phần thân trên uốn lượn theo chiều lượn của thân, bàn chân đặt bằng theo đà chạy của lan can. Phía gót chân có túm lông nhỏ mềm, lượn sóng, móng chân cong lên sát vào bụng. Thân rồng uốn tròn theo kiểu thắt miệng túi. Toàn thân có vẩy hoa. Bụng có những đường con tròn đều, kiểu bụng rắn. Trên lưng có hàng vây ngắn kiểu tia lửa. Theo các nhà nghiên cứu thì một số hiện vật bằng đá và gạch đất nung các vật dụng của vua chúa trang trí có vẽ hình Rồng trong hoàng thành, phần lớn là kiến trúc nghê thuật rồng có niên đại vào thời Lý, Trần, Lê xuất hiện trên khắp diên tích đã được khai quật. Rồng đá không chỉ có ở trong các kiến trúc thành cổ, mà còn có nhiều di tích khác như ở thành bậc đàn Nam Giao, thành bậc cửa Văn Miếu Hà Nội, đền Cổ Loa ,đình Trích Sài, chùa Bà Tấm Dương Xá.... Con rồng không chỉ là biểu tượng văn hóa quý trong di sản văn hoá phi vật thể. Nó đi vào đời sống hôm nay như một nhu cầu văn hoá không thể thiếu được trong các lễ hội. Ta gặp cảnh múa rồng trong hội Đống Đa, hội Nhật Tân, hội Triều Khúc, hội Hoè Thị. Ta gặp cảnh đua thuyền rồng ở Hồ Gươm, Tây Tựu, Yên Sở, Thượng Cát... Nhớ năm Thiên Phù (1121), Binh bộ thượng thư Nguyễn Công Bật đã từng tả cảnh ngày hội Thăng Long và bia hiện còn ở chùa Đọi ở Duy Tiên, Hà Nam (ghi theo bản dịch):
- Nghìn thuyền như chớp giật giữa dòng
Muôn trống tựa sấm vang mặt nước
Dưới hiên ngọc thiết hội đồng phương bá
Nơi thềm son, tấu chương biểu sứ tiên.
Tác phẩm tham dự cuộc thi viết "Hà Nội và tôi" của tác giả Văn Hậu. Thông tin về cuộc thi xem tại đây.