Lên chùa ăn giỗ

Nguyễn Trọng Văn| 08/11/2022 11:31

Mới sáng, tiết giữa thu sương mù bảng lảng, đã râm ran tiếng người gọi nhau. Tôi lững thững đi, cảm giác thanh mát bao trùm, níu tay một “già” tóc trắng, áo nâu, miệng cười hỉ hả, tôi hỏi “Sớm nay các già đi đâu mà vui thế?”. “Già” dừng lại, miệng vẫn cười hỉ hả “Chúng tôi lên chùa ăn giỗ”. Hơi ngạc nhiên vì xưa nay người ta chỉ nói “Ra đình ăn cỗ hội làng” hay “Đến nhà ông B ăn cỗ giỗ họ” hoặc đơn giản là “Nhà bà C hôm nay kỵ nhật cụ cố” chứ có khi nào nghe nói “Lên chùa ăn giỗ đâu?”.

2-2-.jpg

Mà thực ra đúng là hôm nay người dân làng Cầu, người dân mấy tổ dân phố ở phường Thạch Bàn, quận Long Biên rủ nhau ra chùa ăn giỗ thật. Nhác thấy vẻ ngạc nhiên của tôi, “Già”, có tên là Dung, vội giải thích “Hôm nay nhà chùa làm giỗ Cụ Chùa. Chúng tôi ra chùa góp nhau làm cỗ giỗ Cụ”.

Thì ra “Cụ Chùa” như mọi người nói chính là “Sư cao”, vị sư trụ trì chùa Cầu Bây cách đây cũng dễ hơn bảy mươi năm. Bà Dung lại giải thích thêm “Chùa hồi đó có hai vị sư nữ. Vị sư nữ trụ trì có dáng người thanh thanh nên dân làng gọi là “Sư cao” để phân biệt với vị sư nữ kia, gọi là sư thấp”. Vui và chân thật thế đấy, người làng bao giờ cũng có cách gọi vừa thể hiện sự tôn kính lại vô cùng quen thân. Cách gọi nghe cứ như vẫn còn đâu đó, cách gọi nghe thấy gần gũi làm sao, không trịnh trọng, không xa xôi.

Chùa Cầu Bây thuộc làng Thạch Cầu Bây, xã Thạch Bàn xưa. Chành chạnh nhắc thầm cái tên làng mà thấy như ngỡ sắp không còn cả trong ký ức. May mà vẫn còn có những người làng biết cách để giữ tên làng, biết lối để giữ nếp làng xưa. Đó là dân họp bàn nhau, người góp của, kẻ góp công. Làng trùng tu để giữ lại chùa. Vậy là tôi hỏi thăm ngõ dẫn vào chùa. Chùa dù được mang tên mới là “Thiên Phúc Tự” đọc cho nó sang nhưng người thì cứ tên cũ của làng mà thưa - chùa Cầu Bây.

Chùa Cầu Bây có hơn ba trăm năm tuổi và có lẽ là một trong những “ngôi chùa làng Bắc Bộ” đúng nghĩa nhất. Chả là từ hồi xửa hồi xưa chùa làng thường nhỏ và thấp. Chùa lại khiêm tốn nằm ở cuối làng, lọt thỏm giữa vườn rau cùng hoa trái, khuất lấp dưới tán nhãn, tán muỗm xum xuê cành lá, chập tối là chin chít tiếng dơi bay. Chả là từ hồi xửa hồi xưa chùa làng thường ở chỗ giáp với chân đồng, kề bên thửa khoai, cạnh ao rau muống. Người làng xưa thường vốn kiệm lời nên không muốn phô trương. Chốn ấy chỉ dành cho những ai thiện lòng mà tìm đến. Người làng xưa nhu lành nên không thích vẽ với. Chốn ấy chỉ dành cho những ai thực tâm mà tìm tới. Người làng xưa chân chất nên chẳng so đo chẳng nghĩ thiệt hơn. Chốn ấy chỉ dành cho những ai không màng ganh ghét mà tìm đến. Người làng xưa sống kín mình nên chẳng thích giao du. Chốn ấy chỉ dành cho những ai thịnh tình tìm đến.

Tôi đứng ngẩn người ngay trước cổng chùa Cầu Bây chợt lòng hờn tỵ. Một đoạn tường rào cao hút đầu người ngăn cách vườn chùa với con đường trải nhựa đã được đánh biển tên ngõ phố. Tường rào bằng gạch xây còn chưa kịp trát được trổ một lối rộng chừng cánh tay giang để làm cổng vào chùa. Sáng nay cổng chùa chừng như khem khép, chiếc cổng có khung làm bằng ống sắt, phần trên cánh cổng được hàn hoa sắt cho trong ngoài dễ nhìn qua nhìn lại, phần đáy cổng bưng tôn mỏng tang, cổng ngữ vầy chắc chỉ để báo đây chốn tâm linh nên cần yên tĩnh.

Đã sang thu, vậy mà ngó vào thấy chùa Cầu Bây chừng như vắng tĩnh. Chùa làng có khác? Người làng có khác? Tuyệt nhiên không thấy cảnh kẻ tới người lui, áo quần trịnh trọng, nghi ngút khói hương, rổn rang tiếng mõ tiếng chuông. Người làng xưa vốn tính khiêm nhường mà lại vô cùng thấu đáo, ở làng cứ tới đầu tuần hay ngày rằm các già, các vãi mới nhỏ nhẹ rủ nhau “lên chùa”. Lên chùa mà như về với cõi thường nên chẳng cần ồn ã. Lên chùa là lên với chốn tịnh không để hồn bằng lặng. Lên chùa là lên với chốn lánh người mà để lòng người thư thả. Lên chùa là lên với chốn xuân dung mà để thả lòng được bữa thưởng hoa hít gió. Lên chùa là để tạm xa những khắc những giờ lo toan vất vả mà mong cho mình gạt nhẹ buồn đau. Thế mới có câu “vãng cảnh chùa”.

Người đón tôi là một sư cô, bà đã gầy lại như nhỏ thêm dù đã mặc bộ cánh nâu mấy lớp phòng trừ cái lạnh cuối năm, mới thoáng trông đã thấy toát lên vẻ thanh bần thường nhật. Người đàn bà đã ngoài sáu mươi này quê huyện Thanh Hà ở mạn Hải Dương. Bà rời quê đi “ở chùa” Cầu Bây cũng đã ba mươi năm. Hồi đầu lên đây chùa còn khiêm nhẹ. Xã Thạch Bàn hồi đó từng có ý định cấp cho nhà chùa 2 sào ruộng nước, ý là để sư già (nhà sư già này đã ở chùa từ trước cách mạng và cho tới năm 1991 thì mất, hiện mộ được táng tại vườn chùa) cùng sư trẻ cấy hái nuôi nhau nhưng chẳng hiểu sao ruộng xã cho thì nghe nói mãi mà vẫn chưa thấy mặt. Mà chuyện đó đâu nghe nói các sư đâu có bận tâm. Từ thuở xa xưa chùa làng đã thế, có ruộng thì sống bằng nghề ruộng, không ruộng dựa vào vườn, thì nhờ tình nghĩa xóm thôn. Ăn đáng bao nhiêu, có khoai ăn khoai, có sắn ăn sắn, không khoai không sắn thì ăn quả ăn hoa. Giàu thì khó chứ sống thanh đạm có khó gì đâu.

Tôi nhìn ra sân chùa, nắng thu vàng nhẹ. Dậy lên mùi hương của hoa, mùi thơm của bưởi của cam. Sư Nga kể tiếp: “Hồi trước cách mạng, năm đó đúng là năm xảy ra nạn đói năm “bốn nhăm” khủng khiếp. Cô Đàm Thị Nghĩa năm đó đâu cũng mới ba mươi. Người đàn bà quê gốc làng Vòng (Từ Liêm) thảo thơm hương cốm chẳng hiểu lẽ gì mà quy y cửa phật. Cô thành sư cô trụ chùa Cầu Bây cũng từ dạo đó. Một bữa sư cô Đàm Nghĩa, pháp danh của cô Nghĩa, dân làng Cầu Bây thân mật gọi là Sư Nghĩa hay sau này gọi “cụ Cao”, sang Chợ Đường Cái bên Hưng Yên chơi. Sư Nghĩa gặp một gia cảnh một mẹ và ba con nheo nhóc, nghe nói ở tận Thái Bình, đang đói lả chờ chết. Sư Nghĩa động lòng mà vội nhận đứa trẻ có cơ còn sống nhất mang về chùa nhận làm con nuôi. Đứa trẻ ấy Sư Nghĩa đặt tên là Kỳ, Kỳ có nghĩa là kỳ diệu với hy vọng sự kỳ diệu sẽ cho đất sống. Nhà sư cho cậu bé tên Kỳ được mang họ Thích của Nhà Phật. Những năm đầu cuộc kháng chiến toàn quốc, chú tiểu Thích Thanh Kỳ nằng nặc đòi sư cô cho mình được “bỏ chùa” để đi bộ đội. Anh Kỳ, người của chùa Cầu Bây trở thành người chiến sĩ Vệ quốc quân. Trong một trận đánh ngăn quân Pháp càn qua sông Đuống chiến sĩ Thích Thanh Kỳ đã anh dũng hy sinh.

Tôi lại dảo mắt nhìn vườn cây trong khuôn viên chùa. Gió thu man mác. Tôi nhắm mắt mà hình dung ra hình bóng anh bộ đội Thích Thanh Kỳ trước lúc ngã xuống còn cố lục trong túi áo ngực mình lấy ra mảnh vải cà sa mà sư cô Thích Đàm Nghĩa đã trao cho ngày anh “lên đường” với mong muốn mảnh vải ấy sẽ là “lá bùa” chở che anh vượt qua khốn khó. Nhưng đạn thù như kẻ vô tình, anh Vệ quốc quân trẻ tên là Kỳ cùng bao đồng đội của mình đã lấy máu mình vẽ lên ánh sao vàng soi sáng tương lai.

Tôi trộm nhìn sư cô Thích Đàm Nga, bà đã mấy chục năm nay dõi theo bóng hình sư cô Thích Đàm Nghĩa để cố lòng làm những việc nghĩa nhân. Chùa mang tên làng Cầu Bây hiện có ba vinh dự lớn. Thứ nhất là chùa cùng đình làng Cầu Bây tạo nên cụm “Di tích lịch sử kháng chiến” rất đỗi tự hào của làng Cầu. Thứ hai là “chú tiểu” Thích Thanh Kỳ tức cậu bé không rõ mẹ cha, không tường quê quán, không cả danh xưng lại suýt bị “chết đói” năm Ất Dậu về làm “con nuôi nhà chùa” được truy phong Liệt sĩ. Thứ ba là sư cụ Thích Đàm Nghĩa được tặng Huân chương Độc lập hạng Ba và được truy tặng Danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Một danh hiệu chưa từng có tiền lệ và độc nhất vô nhị, đó là một vị sư vốn chẳng chồng con, vốn không họ mạc với liệt sĩ mà chỉ là người có công dưỡng dục. Đất nước không bao giờ quên những người đã đổ máu xương cho độc lập tự do của Tổ quốc. Đất nước đã ghi nhận công lao dưỡng dục của những người đã trọn lòng cho nghĩa phải.

Một làn gió heo may chợt tới, cảm giác se se. Tôi những tưởng từ tận đâu đâu những lời thầm thì đang âm thầm vọng lại. Chùa làng Cầu bây đang độ hướng xuân, nói là hướng xuân cũng bởi lẽ ngôi chùa khiêm nhường này đã được các cấp đồng ý chủ trương nâng cấp cho xứng với “tinh thần” mà ngôi chùa này đã mấy chục năm lặng lẽ toả hương. Vâng, hương hoa ngọc lan trong vườn chùa đang dịu ngọt lan tỏa. Tôi thấy lòng mình bỗng thênh thênh “Chùa làng còn thì tên làng còn. Tên làng còn thì nhân nghĩa mãi còn”. Rồi tâm nhủ lòng “Chùa làng chính là hồn của làng”.

Tác phẩm tham dự cuộc thi viết "Hà Nội và tôi" của tác giả Nguyễn Trọng Văn. Thông tin về cuộc thi xem tại đây.

Bài liên quan
(0) Bình luận
  • Hà Nội, mùa đầu nỗi nhớ
    Tôi chậm rãi bước từng bước nhẹ nhàng trên một con phố nhỏ quanh Hồ Tây, từng chiếc lá vàng từ tốn rơi trên mặt đường tấp nập người qua lại, mặt hồ còn nhấp nhô phản chiếu những tia nắng mờ nhạt còn sót lại của buổi hoàng hôn. Dường như thời gian đang trôi chậm lại để tôi có thể cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp của miền đất Thủ đô, mà trước đây tôi chỉ có thể trông thấy qua lớp màn ảnh vô giác.
  • Ấn tượng thiên nhiên giữa lòng Hà Nội
    Dạo ấy, gần hai năm trước, nhân chuyến công tác Thủ đô, đoàn chúng tôi tổ chức chuyến thực tế thực sự ý nghĩa. Cho đến bây giờ, mọi người vẫn còn luyến tiếc, bởi với thời gian một ngày, chúng tôi chưa thể nào tiếp cận trọn vẹn không gian của “địa chỉ đó”. Cách trung tâm thành phố gần 40km về phía Tây, nơi hội tụ các sản phẩm văn hoá truyền thống của 54 dân tộc anh em. Nơi đó là “Làng Văn hoá các dân tộc Việt Nam” thuộc Khu du lịch Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội.
  • Vé không khứ hồi
    Viết gì đây? Khi mỗi lần nhớ đến thời thơ ấu lòng lại buồn thương da diết. Tuổi thơ yêu dấu trong lòng Hà Nội, nơi mở ra những trang màu hồng đầy ắp kỷ niệm của hai đứa chúng tôi. Nay xa rồi tất cả tầm tay với.
  • Gửi cậu của một năm sau
    Bây giờ, tớ là một cô sinh viên năm ba vô lo, vô nghĩ chuyện tương lai. Hoặc đã từng nghĩ nhưng không quá nhiều lo lắng. Một năm sau cậu sẽ làm gì? Cậu sẽ trở thành ai? Liệu cậu có tiếp tục cuộc sống nơi Hà Nội nhộn nhịp xô bồ hay trở về miền quê yên bình của riêng cậu? Tớ chắc sẽ không khuyên nhủ gì cậu đâu, nhưng tớ muốn nói với cậu, mặc cho việc kiếm việc khó khăn, mặc cho áp lực cơm, áo, gạo, tiền đè nặng lên vai cậu thì đã từng có một Hà Nội yêu thương, che chở, bảo vệ cậu đến nhường nào.
  • Hà Nội mến thương
    Quê hương là nơi chôn nhau, cắt rốn, là nơi để những đứa con xa quê nhung nhớ mỗi khi có cơn gió hiu hiu thổi qua làm dấy lên cả một bầu trời nhung nhớ. Nhưng có những vùng đất ta sẽ gặp khi bước ra khỏi luỹ tre làng, để rồi khẽ thương từ độ nào không hay. Bởi ở nơi ấy, có những kỷ niệm, có những con người làm ta cảm mến, lưu luyến chẳng nỡ rời xa.
  • Hà Nội và những người thầy
    Tôi cùng một số bạn bè đến Thủ đô, dự Lớp bồi dưỡng viết văn Nguyễn Du, do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức. Chiều cuối thu bên Hồ Tây, bốn người không chung giọng nói, cùng nhau nhâm nhi li bia hơi Hà Nội và đĩa mực khô nướng Quảng Bình. Được dịp, chuyện nổ như rang ngô, niềm vui cứ thế thăng hoa, khiến câu chuyện cũng trở nên không đầu không cuối…
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Người dân đội nắng đứng bên đường khóc tiễn Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về lòng đất mẹ
    Trong thời tiết nắng nóng Hà Nội lên tới 40 độ C, nhưng rất nhiều người dân vẫn đội nắng đứng trên các tuyến đường hướng về Nghĩa trang Mai Dịch để tiễn biệt Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lần cuối.
  • Những dòng sổ tang nhoè nước mắt tiễn biệt Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại quê nhà
    Rất đông người dân ở mọi độ tuổi, có người già, thanh thiếu niên, trẻ nhỏ... lặn lội từ các quận, huyện của thành phố Hà Nội và các tỉnh đến để tiễn đưa người lãnh đạo đáng kính.
  • Người dân nghẹn ngào, tiếc thương Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
    Tại quê nhà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, thôn Lại Đà, xã Đông Hội, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội, những đôi mắt đỏ hoe, cùng hàng ngàn giọt lệ đã, đang và sẽ rơi là những hình ảnh đầy xúc cảm, thể hiện sự tiếc thương, kính trọng của người dân đối với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
  • Toàn văn lời điếu tại Lễ truy điệu Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
    Ngày 26/7, Lễ truy điệu đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam được cử hành trọng thể theo nghi thức Quốc tang tại Nhà tang lễ Quốc gia, số 5 Trần Thánh Tông (Hà Nội). Lễ truy điệu cũng được tổ chức đồng thời tại Hội trường Thống Nhất (thành phố Hồ Chí Minh) và quê nhà Tổng Bí thư tại xã Đông Hội, huyện Đông Anh (Hà Nội). Trong niềm tiếc thương vô hạn, Chủ tịch nước Tô Lâm - Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Lễ tang đã đọc Lời điếu tại Lễ Truy điệu Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
  • [Video] Người dân từ mọi miền đất nước xếp hàng để được thắp nén tâm hương tưởng nhớ Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
    Tang lễ đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được tổ chức theo nghi thức Quốc tang trong hai ngày 25 và 26/7/2024. Lễ viếng đồng chí Nguyễn Phú Trọng được tổ chức tại Nhà tang lễ Quốc gia số 5 Trần Thánh Tông, thành phố Hà Nội, bắt đầu từ 7 giờ đến 22 giờ ngày 25/7 và từ 7 giờ đến 13 giờ ngày 26/ 7/ 2024. Lễ viếng, Lễ truy điệu đồng chí Nguyễn Phú Trọng được tổ chức cùng thời gian trên tại Hội trường Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh và tại quê nhà xã Đông Hội, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.
Đừng bỏ lỡ
Lên chùa ăn giỗ
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO