Hà Nội xưa - nay

Cốm non gói lá sen làng Mễ Trì

Nguyễn Tiến Đức 06:49 28/06/2023

Làng Mễ Trì nay thuộc phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội. Nơi đây xưa là vùng đất đồng chiêm trũng, từng cấy giống lúa Tám Xoan rất ngon, được chọn để tiến vua, cho nên vua đặt tên làng là Mễ Trì, có nghĩa là “Ao gạo”.

com-la-gi-cach-bao-quan-com-tuoi-mua-com-lang-vong-o-dau-ngon-thumb-chu-nhat-1200x676.jpg

Các câu chuyện về các vị Thành hoàng được thờ ở đình làng Mễ Trì chưa rõ nguồn gốc và xuất tích nhưng vẫn được lưu truyền lâu nay. Có tài liệu cho rằng Thành hoàng được thờ ở đây là 3 vị, lại có tài liệu ghi là 4 vị, song cũng có câu chuyện kể về 5 vị Thành hoàng. Hai vị Thành hoàng đầu tiên và phổ biến nhất là Cao Sơn và Quý Minh. Theo truyền thuyết, hai vị đều là hậu duệ của Lạc Long Quân và Âu Cơ, có công giúp Hùng Duệ Vương đánh tan quân Thục từ Ai Lao tiến đánh nước ta.

Vị Thành hoàng thứ ba là Lý Bí, người có công dựng nước Vạn Xuân năm 544, theo giai thoại thì ông cũng là người từng giúp dân nơi đây bắt cá. Vị Thành hoàng thứ tư được thờ phối là tướng Đỗ Tâm Lang (Lý Lữ) - là người từng theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Sau khi Đinh Tiên Hoàng mất, ngài theo Lê Đại Hành chống quân Tống xâm lược. Một lần hành quân ra trận, ngài bị thương phải nằm lại làng Mễ Trì. Những giọt máu của ngài đã nhuộm đỏ đất ấy. Tương truyền, do có công lao với đất nước cho nên sau khi ngài hóa, nhân dân Mễ Trì đã lập đền thờ tại nơi ngài đã nhỏ máu.

Vị Thành hoàng thứ 5 được thờ phối là Đông Hải Đại Vương, theo truyền thuyết là con vua Thủy Tề.

c6-01.jpg

Lại nói, giai thoại về chuyện Lý Nam Đế từng giúp dân nơi đây đánh cá kể rằng: Vào năm Tân Dậu (961) xảy ra trận đại hồng thủy, người dân làng Mễ Trì chỉ còn cách kéo vó kiếm cá sinh nhai. Đến khi nước rút, dân làng mang vó ra sông kéo cá. Hôm đó 3 cụ ở 3 làng: Mễ Trì, Nhân Mỹ, Đình Thôn cùng kéo vó trên một khúc sông, kéo từ buổi chiều tới gần sáng mà không ai được con cá nào, mọi người ngán ngẩm định bụng ra về. Bỗng nhiên cụ ở làng Mễ Trì thấy mảnh gỗ phát ra ánh sáng trôi vào vó, cụ lấy gậy đẩy ra ba, bốn lần nhưng chỉ được một lúc, tấm gỗ ấy lại trôi vào vó. Không kiên trì thêm nữa, cụ liền vớt lên bờ, miệng lẩm nhẩm khấn:

- Chúng con là người dân lam lũ nay đi kéo vó kiếm cá, nếu thần có linh thiêng xin được phù trợ cho con kéo được đầy giỏ cá!

Lời thỉnh cầu vừa xong thì linh ứng ngay, chả mấy chốc đã đầy giỏ cá. Tiếng cá quẫy trong giỏ làm cho hai cụ kế bên nóng lòng hỏi vì đâu mà kéo được nhiều cá thế? Cụ thực thà chỉ vào tấm ván vừa vớt lên mà nói:

- Tôi vừa vớt tấm ván kia lên bờ vì cứ trôi vào vó của tôi nên được phù hộ.

Thấy vậy, 2 cụ làng bên bèn khấn với tấm ván rằng:

- Ngài đã thương thì thương cho trót, chúng con xin cung tiến bát hương và thờ ngài mãi mãi.

Thế rồi chẳng bao lâu 2 cụ làng bên cũng kéo được đầy giỏ cá. Tiếng lành đồn xa, dân làng nô nức kéo đến xem thực hư về tấm gỗ thiêng. Lập tức, khi tấm ván được mọi người mang xuống sông kỳ cọ hết bùn và rêu phủ thì rõ chữ: Lý Triều Đại Vương tức Diêm La Thiên Tử. Biết là tấm bài vị linh thiêng, dân làng Mễ Trì mang về lập miếu thờ hương khói quanh năm. Từ đó dân làng ai đi kéo vó cũng được nhiều cá. Và cũng từ đó, ngày 7 tháng Giêng âm lịch hằng năm, cả 3 làng: Mễ Trì, Nhân Mỹ, Đình Thôn đều mở hội tế rước ngài về thờ phối tại đình làng.

Năm 1992, đình Mễ Trì được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng Di tích Lịch sử Kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia.

Lễ Thường Tân tức ngày 15 tháng 9 âm lịch (tết cơm mới, xôi mới) tại đình làng Mễ Trì, người dân dâng lên lễ vật là món cốm non. Để có món cốm non dâng lễ này phải qua nhiều công đoạn làm bằng thủ công rất công phu. Trước đó, cụ Cai đã chỉ đạo người nhà chuẩn bị chọn lúa. Chày cối giã, các dụng cụ thúng mẹt, nia, sàng chảo rang đều được vệ sinh sạch sẽ, đắp bếp lò để giữ nhiệt cho bếp, chuẩn bị củi để rang, tránh dùng củi xoan. Lúa chọn phải là loại nếp cái hoa vàng, nếu già quá thì hay bị vỡ khi giã, non quá thì bị vón cục dính trấu. Vì thế, khi bông lúa đã chuyển màu hoe vàng, hạt thóc mẩy có trọng lượng kéo bông lúa cong xuống như hình lưỡi câu, gọi là lúa uốn câu, gặt về làm cốm là ngon nhất. Lúa mang về phải làm ngay trong ngày mới không bị mất nước và giữ được độ tươi. Lúa còn xanh rất dai, nếu đập vào cối đá thì gạo bị vỡ, phải dùng hai đũa tre kẹp vào từng bông lúa để tuốt, loại bỏ bông lúa tẻ, rồi cho thóc vào bể đãi loại bỏ hạt lép, vớt ra rá cho ráo nước rồi mới rang. Trước đây, phải dùng nồi đất Hương Canh để rang cốm, bây giờ thì dùng chảo gang càng dày càng giữ nhiệt. Ban đầu to lửa, tới khi thóc chuyển màu tái trắng thì cho lửa nhỏ lại, đảo đều đến khi chín tới. Làm sao để không giòn mà vẫn tróc trấu là khó nhất trong nghề làm cốm, bởi chỉ cần hơi già lửa một chút là hạt cốm vỡ nát. Khi giã phải dùng chày cối chuyên dụng, một người giã một người ngồi đảo, động tác phối hợp nhịp nhàng để không va chày vào người đảo cốm, nhịp chày nhè nhẹ, nhịp nhàng khoan thai thì cốm mới mịn dẻo. Khi nào thấy trong cối giã tróc trấu ra nhiều thì người ngồi đảo cốm ra hiệu ngừng lại để đưa cốm ra mẹt to, sẩy hết trấu rồi cho ra sàng. Phải sàng đều tay cho thóc chụm lại ở giữa, cho cốm xung quanh đỡ bị sàng ra ngoài. Chỗ lúa còn lại đổ vào cối giã tiếp và cứ thế cho đến hết mới thôi.

Chọn lớp lá gói cốm cũng cần tinh tế và khéo léo. Đó là hai lớp lá ráy và lá sen. Họ cây ráy có nhiều loại, phải biết chọn loại ráy không ngứa để hái lá dùng gói cốm.

Lá ráy và lá sen phải được rửa sạch, lau khô ráo. Sau đó, lá ráy lót trong lá sen bọc ngoài. Lá ráy tươi lót bên trong nhằm giữ độ ẩm cho cốm không khô, bên ngoài là lớp lá sen tỏa hương thơm ngát, buộc gói cốm bằng hai sợi rơm nếp mới, như kiểu buộc bánh chưng. Cốm non đạt tiêu chuẩn cốm ngon phải là đều hạt hình dẹt, màu xanh thơm dẻo ăn có vị ngọt và ngậy. Hương cốm non thơm mùi nếp mới hòa quyện với mùi thơm lá sen là nét trưng của hương cốm làng Mễ Trì.

Trong ngày Tết cơm mới, xôi mới, lễ vật đầu tiên dâng lên đình làng là gói cốm non gói lá sen và đĩa bánh làm từ cốm (bánh cốm) của gia đình cụ Cai, rồi mới đến lễ vật của dân làng. Nhiều người dân mang lễ vật tới đình dâng Thánh như hoa quả, trầu rượu, xôi gà, nhưng phần đông là mang cốm và bánh cốm, với lòng thành kính của nhà làm ra, gọi là “của sớm mới”. Lễ Thánh xong, cụ Cai phát lộc cho mọi người ăn lấy khước, gọi là lộc Thánh.

com-lang-vong-6-e1597748779922.jpg

Gắn liền với sự tích về cốm non Mễ Trì mà nhiều người yêu cốm nhưng chưa biết tới là một câu chuyện khác. Chuyện rằng: Thuở xưa, vào mùa thu năm ấy còn khoảng 2 tuần nữa mới gặt được lúa mùa sớm. Bỗng nhiên trời đổ cơn mưa to gió lớn làm đê bị vỡ, ruộng đồng chìm nghỉm. Tiếc công tiếc của, dân làng Mễ Trì phải đằm mình trong nước lấy liềm vơ ngọn lúa phất phơ mà cắt mang về rồi tuốt ra rang khô. Nhưng vì không xay được, phải cho vào cối đá giã gạo, giã xong sẩy hết trấu, ăn để chống đói. Không ngờ việc làm bất đắc dĩ ấy lại trở thành hương vị trứ danh và đặc sản cốm non Mễ Trì ngày nay./.

Bài liên quan
  • Nguyễn Tư Giản - Một tình yêu Hà Nội
    Nguyễn Tư Giản (1823 – 1890) vốn tên là Văn Phú, tự Tuân Thúc, bút hiệu Thạch Nông, Vân Lộc là người làng Du Nội (xưa thuộc phủ Từ Sơn, nay thuộc xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, TP Hà Nội). Ông là cháu nội của Nguyễn Án – một bậc danh nho, dòng dõi họ Nguyễn làng Vân Điềm nổi tiếng có nhiều ông Nghè, ông Cống bậc nhất ở xứ Đông Ngàn xưa; đồng tác giả cuốn “Thương tang ngẫu lục” viết về lịch sử, danh thắng, phong tục của đất Thăng Long – Hà Nội cuối đời Lê, đầu đời Nguyễn (viết chung với Phạm Đình Hổ).
(0) Bình luận
  • Ký ức Hà Nội thời bao cấp qua di sản kiến trúc
    Lịch sử đô thị Hà Nội có tầng tầng, lớp lớp các công trình kiến trúc được chia thành nhiều giai đoạn. Nếu như các công trình kiến trúc Pháp là minh chứng cho bước đầu du nhập văn minh phương Tây thì những công trình mang phong cách kiến trúc Đông Dương lại là sự kết hợp độc đáo giữa văn hóa phương Đông và phương Tây. Những công trình kiến trúc thời kì 1954 - 1986 đã thể hiện một tiếng nói mới, có sự kế thừa, học hỏi và sáng tạo, mang bản sắc kiến trúc Việt Nam, góp phần kiến tạo xã hội trong tâm thế một dân tộc được làm chủ vận mệnh của mình.
  • Đô thị sinh thái Thăng Long - Hà Nội là cơ sở hình thành văn hóa thanh lịch, giá trị sống hướng tới sự an bình
    GS-TS. Đặng Cảnh Khanh - Viện trưởng Viện nghiên cứu truyền thống và phát triển, nhận định, đô thị sinh thái Thăng Long - Hà Nội chính là cơ sở cho sự hình thành văn hóa thanh lịch và giá trị sống hướng tới sự an bình. Sự thanh lịch của con người đô thị Thăng Long, trước hết có lẽ được bắt đầu hình thành từ chính cảnh sắc của Thăng Long – Hà Nội.
  • Văn hóa Thăng Long - Hà Nội trở thành tâm điểm của những sáng tạo và phát triển văn hóa
    Theo GS.TS. Đặng Cảnh Khanh (Viện trưởng Viện nghiên cứu Truyền thống và phát triển), tính chất thanh cao, tôn trọng sự hài hòa và an bình khiến cho văn hóa Thăng Long - Hà Nội trở thành tâm điểm của những sáng tạo và phát triển văn hóa. Bởi vậy, UNESCO phong tặng danh hiệu “Thành phố hòa bình” cho Hà Nội là đúng đắn.
  • Đêm hồ Gươm kỳ diệu
    Sáng rực, lung linh, huyền ảo, thơ mộng - những vòm cây ven hồ sẫm tối nhả ra muôn ngàn trái quả nhấp nhánh như trong một đêm địa đàng, một vườn cổ tích. Ấy chính là quang cảnh hồ Gươm những ngày lễ Tết trong ký ức tuổi thơ tôi.
  • Chuyện ở hàng nước mắm
    Những năm 1958 - 1959, Hà Nội chưa bước vào nền kinh tế bao cấp, các cửa hàng tư nhân lâu đời vẫn hoạt động buôn bán ở khắp các phố phường. Dạo ấy, tôi đã bảy, tám tuổi nên thường được bà ngoại và mẹ sai đi mua những đồ lặt vặt cho gia đình.
  • Kiến trúc Thủ đô (1954 - nay): Dấu ấn qua mỗi chặng đường
    Sau ngày tiếp quản (10/10/1954), từ một thành phố nhỏ bé, với lượng dân số ít, Hà Nội đã vươn tầm trở thành thành phố lớn trong khu vực và thế giới với không gian kiến trúc đô thị đa hệ, giàu bản sắc và phát triển theo hướng văn minh hiện đại. Nhìn lại chặng đường 70 năm qua, có thể thấy ngành kiến trúc quy hoạch xây dựng đã có những đóng góp đáng kể và để lại nhiều dấu ấn. Đây chính là những bước đệm, tạo đà cho sự phát triển của đô thị Hà Nội trong tương lai.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Tọa đàm những vấn đề về kịch bản sân khấu hiện nay
    Với mong muốn tìm ra những nguyên nhân và giải pháp về vấn đề kịch bản sân khấu hiện nay, sáng 22/11, Hội Sân khấu Hà Nội tổ chức tọa đàm “Những vấn đề về kịch bản sân khấu” với sự tham gia của đông đảo hội viên trong hội.
  • [Podcast] Thu Hà Nội – Mùa của tình yêu và nỗi nhớ
    Bốn mùa, xuân, hạ, thu, đông của Hà Nội, mỗi mùa đều mang trong mình nét đẹp riêng bới hương, bởi sắc của mỗi mùa. Nhưng có lẽ, mùa thu vẫn là một mùa thật đặc biệt của Người Hà Nội. Mỗi độ thu về như gói gọn cả một Hà Nội cổ kính, trầm mặc, một Hà Nội thơ mộng và trữ tình. Chính bởi vẻ đẹp đó mà mùa thu đã trở thành nỗi nhớ cho những ai đã từng gắn bó với Hà Nội mà nay phải chia xa, là niềm ước ao một lần được “chạm vào” của nhiều du khách.
  • Khám phá Tây Bắc tại triển lãm "Tây Park - Ngàn"
    Triển lãm thị giác "Tây Park - Ngàn" được thực hiện dựa trên quá trình 10 năm đi và trải nghiệm tại Tây Bắc (Việt Nam) kết hợp sáng tạo nhiếp ảnh của Nguyễn Thanh Tuấn.
  • Huyện Thanh Oai: Đẩy mạnh triển khai Chỉ thị 30-CT/TU với tuyên truyền các Quy tắc ứng xử
    Huyện Thanh Oai đề cao và phát huy vai trò cá nhân của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong nhiệm vụ xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh; vai trò trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, cộng đồng, mỗi gia đình trong xây dựng và giữ gìn môi trường văn hóa lành mạnh.
  • Các xã, phường mới của Hà Nội sau khi sáp nhập
    Sau khi sắp xếp lại, Hà Nội có 526 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 160 phường, 345 xã và 21 thị trấn.
Đừng bỏ lỡ
Cốm non gói lá sen làng Mễ Trì
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO