Hoạt động hội

Múa bồng Triều Khúc và chèo tàu Tổng Gối: Di sản sống giữa lòng Thủ đô

Thụy Phương 21:21 04/12/2025

Sáng 4/12, Hội Văn nghệ Dân gian Hà Nội tổ chức cuộc tọa đàm “Diễn xướng dân gian trong lễ hội Hà Nội: Múa bồng Triều Khúc và chèo tàu Đan Phượng”. Qua phần trình bày của nhà nghiên cứu Giang Nguyên Bồi, họa sĩ Giang Nguyên Thái và Giám đốc Trung tâm Văn hóa Thể thao xã Ô Diên Bùi Thị Quyên, những giá trị lịch sử, đặc trưng nghệ thuật và hành trình bảo tồn, phát huy của hai loại hình diễn xướng dân gian độc đáo này đã được làm sáng rõ.

Múa trống bồng - di sản độc đáo của lễ hội Triều Khúc

Theo nhà nghiên cứu Giang Nguyên Bồi, điệu múa trống bống đã xuất hiện từ thế kỷ VIII khi Đức Phùng Hưng - Bố Cái Đại Vương đóng quân tại Triều Khúc để chuẩn bị đánh quân xâm lược nhà Đường, đóng tại thành Tống Bình (Đại La - Hà Nội ngày nay). “Trong nghĩa quân lúc đó không có phụ nữ, Phùng Hưng đã cho binh sĩ cải trang làm giả gái và đeo trống bồng để múa nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí của nghĩa quân trước khi ra trận… Điệu múa trống bồng ra đời từ đó và có truyền thống hơn 13 thế kỷ”.

z7292466456800_425d2d59bad3d001a3ee776712f82f8a.jpg
PGS.TS Trần Thị An- Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp VHNT Hà Nội, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội phát biểu tại tọa đàm.

Từ chỗ là hình thức khích lệ tinh thần trước trận đánh, múa trống bồng trở thành nghi lễ hầu thánh, gắn với tín ngưỡng thờ Đức Phùng Hưng và là điệu múa gia bảo (báu vật của làng) qua nhiều thế hệ.

Theo nhà nghiên cứu Giang Nguyên Bồi, điệu múa bồng mang tính thiêng, liên quan đến triết lý âm - dương và ngũ hành thông qua đội hình và trang phục. Các vũ công tham gia múa đều là nam giả nữ, thể hiện rõ nét lẳng lơ, lúng liếng nhưng cũng lại phải toát ra phong thái nam nhi cùng tinh thần thượng võ. Vũ công tham gia phải là thanh niên chưa vợ, chính gốc làng Triều Khúc, mặt mũi khôi ngô, học hành giỏi giang, vóc dáng dong dỏng. Đội múa trống bồng gồm 4 thanh niên mặc áo trắng, vấn khăn lượt chít khăn mỏ phượng màu đỏ, má phấn môi son, cổ đeo yếm cổ xây cách điệu hình lá sen gắn kim sa, kim tuyến. Hai vạt lụa đen tượng trưng váy lĩnh được thắt bằng bao tượng màu hổ thùy. Trước bụng mỗi người đeo trống bồng sơn đỏ dài khoảng 50cm. Vai và hông choàng dải tua ngũ sắc tượng trưng cho ngũ hành.

z7292458561828_2ac0cf57a2cfff35b0f7488562124ecb.jpg
Nhà nghiên cứu Giang Nguyên Bồi phát biểu tại tọa đàm.

Khi trình diễn, 4 người chia thành hai cặp thay phiên nhau múa. Đội hình đánh trống gồm 6 nhạc công đứng xung quanh tượng trưng cho “trời tròn, đất vuông”. Nhạc công giữ vai trò quan trọng, đặc biệt người đánh thanh la cầm trịch tiết tấu nhịp 1/4 dồn dập, tạo khí thế lễ hội rộn ràng. Đến cao trào, cả 4 vũ công cùng vào múa, tạo không khí rộn ràng và linh thiêng. Ngày nay, để tăng sự hoạt náo trong lễ rước, số cặp múa có thể tăng lên từ 3 đến 6 cặp, thậm chí 10 cặp.

z7292473492858_97b91b5ed1dcf1e170c2a7fa4f3ea309.jpg
Biểu diễn múa trống bồng tại tọa đàm.

Nhà nghiên cứu Giang Nguyên Bồi cũng nhắc đến những thế hệ nghệ nhân đã gìn giữ ngọn lửa múa bồng như nghệ nhân Nguyễn Huy Cá, Nguyễn Gia Trung, Bùi Văn Tốt, Bùi Văn Dẻo, Bùi Văn Lục, Triệu Đình Vạn, Cao Xuân Năm và đặc biệt là nghệ nhân Triệu Đình Hồng - người “nắm bắt được hồn cốt” của vũ điệu và tham gia phục dựng, truyền dạy trong giai đoạn hiện đại. Ông cũng cho hay, điệu múa bồng hiện nay không còn bó hẹp trong lễ hội của làng mà còn được mời đi biểu diễn trong Nam, ngoài Bắc. Không chỉ người dân Triều Khúc tự hào về điệu múa đặc sắc của làng mình mà ngay cả những nhà nghiên cứu văn hóa cũng đánh giá cao giá trị nghệ thuật của điệu múa bồng.

z7292457742696_0db5e8e2a6aa1a0b12d31ece33204e7e.jpg
Họa sĩ Giang Nguyên Thái chia sẻ tại tọa đàm.

Là người con của quê hương Triều Khúc, họa sĩ Giang Nguyên Thái đã chia sẻ những kỷ niệm khó quên gắn với điệu múa trống bồng. Ông nhớ lại, những năm 1955, có hai cô văn công Trung ương về học múa bồng tại sân nhà chủ tịch xã. Lũ trẻ trong làng, trong đó có ông “ngồi chầu hẫu ở góc sân xem các cô văn công học múa trống bồng”. Ròng rã mấy tháng trời, hôm kết thúc nhìn các chị múa, hai cụ nghệ nhân mỉm cười… hai chị biết mình đã học thành công điệu múa trống bồng.

Họa sĩ Giang Nguyên Thái lý giải, sở dĩ gọi điệu múa này là “con đĩ đánh bồng” vì theo phong tục của làng Triều Khúc, nếu sinh con gái thì gọi là cái “đĩ”, nếu sinh con trai thì gọi là thằng “cu”. Từ “đĩ” ở đây thuần túy là gọi con gái chứ không mang hàm ý xấu. Ông cũng dẫn lại nhận định của GS. Tô Ngọc Thanh để khẳng định thêm giá trị của múa bồng: “Điệu múa con đĩ đánh bồng của làng ông đã làm nên hồn cốt của lễ hội. Có điệu múa này lễ hội Triều Khúc mới có tính độc đáo hơn hẳn các lễ hội khác”.

Hát chèo tàu - di sản sống giữa lòng Thủ đô

Tại buổi tọa đàm, bà Bùi Thị Quyên - Giám đốc Trung tâm Văn hóa Thể thao xã Ô Diên cũng đã giới thiệu tổng quát về hát chèo tàu (hát tàu tượng) - loại hình diễn xướng dân gian đặc sắc của vùng Tổng Gối xưa, nay là xã Ô Diên (Hà Nội). Bà Bùi Thị Quyên cho hay, hội hát chèo tàu lần đầu tổ chức năm 1683 và duy trì 25 năm một lần. Trải qua nhiều thăng trầm lịch sử, có thời gian lễ hội bị gián đoạn hàng chục năm song với tình yêu và nỗ lực gìn giữ của cư dân 4 làng Thượng Hội, Thúy Hội, Vĩnh Kỳ và Phan Long, loại hình nghệ thuật “có một không hai” này đã được khôi phục và truyền dạy, trở thành di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào tháng 5/2025.

z7292459277873_e04c02e3809c1b3b7db0747eb0390e6a.jpg
Giám đốc Trung tâm Văn hóa Thể thao xã Ô Diên Bùi Thị Quyên giới thiệu về nghệ thuật hát chèo tàu ở vùng Tổng Gối xưa.

Nhiều truyền thuyết gắn với nguồn gốc chèo tàu cho đến nay vẫn được lưu truyền. Có ý kiến cho rằng hội hát nhằm tưởng nhớ Hai Bà Trưng, khi đội quân của Hai Bà từng hành quân qua vùng Tổng Gối. Một cách lý giải khác cho rằng chèo tàu bắt nguồn từ cuộc khởi nghĩa Hắc Y của tướng Văn Dĩ Thành chống quân Minh xâm lược. Đội quân lấy vùng Tổng Gối làm căn cứ, lợi dụng đêm tôi chèo thuyền qua sông để tiêu diệt giặc. Dù theo cách nào, điểm chung của lễ hội hát chèo tàu chứa đựng tinh thần thượng võ, lòng biết ơn tiền nhân và khát vọng giữ gìn bản sắc văn hóa của cư dân Tổng Gối.

Hội hát chèo tàu phát triển rực rỡ từ thế kỷ XVII và hoàn thiện vào thế kỷ XIX. Điểm độc đáo nhất của nghệ thuật này là thành viên tham gia đều là nữ. Mỗi con tàu có một Chúa tàu (50-55 tuổi), hai Cái tàu và mười Con tàu (13-16 tuổi). Đối xứng với tàu là đôi voi cùng hai quản tượng có nhiệm vụ thổi loa tù và làm hiệu, hát đối.

z7292461280553_f84db5c57e840a2a141b3341a8f2c8b9.jpg
Những ý kiến tham luận tại tọa đàm cũng góp phần làm sâu sắc thêm nhận thức về giá trị lịch sử, nghệ thuật và sức sống bền bỉ của hai loại hình diễn xướng dân gian này.

Lễ hội chèo tàu diễn ra từ rằm đến 21 tháng Giêng, kéo dài 7 ngày 7 đêm. Mở đầu, các ca nhi sẽ “hát trình” các bài dâng hương, dâng rượu, “trạo ca” (hát trên thuyền, hát chèo thuyền) và “bỏ bộ” (hát đối đáp giữa tàu, tượng và người đến xem hội). Khi biểu diễn, Chúa tàu đánh thanh la, hai Cái tàu lĩnh xướng, mười Con tàu họa theo. Những bài hát trong chèo tàu phần lớn ca ngợi công đức các danh nhân, đặc biệt là Thành hoàng Văn Dĩ Thành - vị tướng có công lớn trong kháng chiến chống quân Minh thế kỷ XV.

Đề cập tới hành trình làm “sống lại” chèo tàu ở Tổng Gối, bà Bùi Thị Quyên cho biết: Sau kỳ hội cuối năm 1922, chèo tàu bị gián đoạn hơn 70 năm. Đến năm 1998, những người tâm huyết đã thành lập Câu lạc bộ hát chèo tàu Tổng Gối, bắt đầu hành trình “làm sống lại” di sản. Một may mắn lớn là từ những năm 1960, Viện Âm nhạc Việt Nam đã kịp ghi âm nhiều bài hát chèo tàu do các nghệ nhân từng dự hội năm 1922 thể hiện. Băng tư liệu này trở thành “căn cứ gốc” để thế hệ sau học lại. May mắn nữa là cụ Tiến Thị Lục - con gái của người từng đóng vai Cái tàu vẫn còn thuộc nhiều điệu hát đã trực tiếp truyền dạy cho lớp trẻ. Vì lời chèo tàu có tới 90% là thơ lục bát, lại hiện diện trong đời sống qua hát ru, hát giao lưu… nên dù hội không mở suốt nhiều thập niên nhưng “lời ca tiếng hát vẫn không mất đi”.

z7292468767219_751a7d904556872aea895ce08f48a35b.jpg
Tọa đàm góp phần lan tỏa giá trị của di sản diễn xướng dân gian trong đời sống văn hóa Thủ đô.

Những năm gần đây, chính quyền địa phương đã phối hợp chặt chẽ với cộng đồng để duy trì, quảng bá và đưa chèo tàu trở lại đời sống. Các lớp truyền dạy được tổ chức thường xuyên tại trường học và nhà văn hóa. Đến nay, câu lạc bộ đã có hơn 70 hội viên, trong đó 4 người được phong tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú.

Thực tế công tác bảo tồn vẫn còn nhiều khó khăn: nghệ nhân ngày càng cao tuổi, việc đào tạo lớp kế cận gặp trở ngại do độ tuổi ca nương còn đang đến trường, kinh phí hạn chế… Tuy vậy, chính quyền địa phương cam kết tiếp tục “tạo đất diễn” cho chèo tàu trong các chương trình văn nghệ quần chúng ở địa phương, đồng thời lồng ghép di sản vào hoạt động giáo dục để thế hệ trẻ hiểu và tự hào về truyền thống quê hương.

z7292463664607_dda28be7180729cea027dd54bbd9b939.jpg
Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm sau tọa đàm.

“Dù còn không ít khó khăn phía trước song các nghệ nhân và người dân đều tin rằng với sự quan tâm của các cấp chính quyền cũng như nỗ lực gìn giữ, tình yêu với “đặc sản” nghệ thuật địa phương của mỗi người, chèo tàu sẽ sống mãi với thời gian, là nét đẹp văn hóa của người dân vùng Ô Diên nói riêng và Thủ đô Hà Nội nói chung. Danh hiệu Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia được công nhận năm 2025 là sự ghi nhận xứng đáng đối với loại hình diễn xướng độc đáo này, đồng thời mở ra cơ hội để chèo tàu có thêm nguồn lực bảo tồn, quảng bá ra cộng động rộng lớn hơn; tạo tiền đề để địa phương tổ chức các hoạt động du lịch văn hóa nhắm phát huy giá trị di sản gắn với phát triển kinh tế - xã hội”, bà Bùi Thị Quyên khẳng định.

Ngoài phần trình bày của các diễn giả, những ý kiến tham luận tại tọa đàm cũng đã góp phần làm sâu sắc thêm nhận thức về giá trị lịch sử, nghệ thuật và sức sống bền bỉ của múa bồng Triều Khúc và chèo tàu Tổng Gối. Đây là những di sản quý của cộng đồng cần tiếp tục được bảo tồn, trao truyền và lan tỏa mạnh mẽ hơn nữa trong đời sống đương đại của Thủ đô./.

Bài liên quan
(0) Bình luận
  • Hội Điện ảnh Hà Nội: 3 thập kỷ sáng tạo và cống hiến
    Sáng 12/11, tại Hãng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương (465 Hoàng Hoa Thám, Hà Nội), Hội Điện ảnh Hà Nội tổ chức lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập (12/11/1995 – 12/11/2025). Lễ kỷ niệm là dịp để Hội Điện ảnh Hà Nội cùng nhau nhìn lại hành trình đã qua, để tri ân những người đi trước và để thắp lên ngọn lửa cho sự tiếp nối mạnh mẽ hơn.
  • Chi bộ Hội Liên hiệp VHNT Hà Nội tổ chức trao quyết định công nhận đảng viên chính thức và thẻ đảng viên mới
    Chiều 11/11, tại buổi sinh hoạt thường kỳ tháng 11/2025, Chi bộ Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội đã tổ chức lễ trao Quyết định công nhận đảng viên chính chức cho đảng viên dự bị và trao thẻ đảng viên mới cho 14 đồng chí Đảng viên trong Chi bộ.
  • Tái hiện sinh động tinh hoa di sản múa cổ Thăng Long - Hà Nội
    Tối 31/10/2025, tại Sân khấu Không gian Biểu diễn Nghệ thuật - Ẩm thực đường phố phường Tây Hồ (phố đi bộ Trịnh Công Sơn, đường Lạc Long Quân, quận Tây Hồ, Hà Nội), Hội Nghệ sĩ Múa Hà Nội tổ chức Chương trình biểu diễn “Bảo tồn và phát huy nghệ thuật múa cổ truyền Thăng Long - Hà Nội năm 2025”. Đây là hoạt động trong khuôn khổ Đề án “Sưu tầm, bảo tồn và phát huy nghệ thuật múa cổ truyền Thăng Long - Hà Nội” do Hội Nghệ sĩ Múa Hà Nội triển khai năm thứ hai.
  • Hội Sân khấu Hà Nội tìm giải pháp cho kịch bản đề tài đương đại
    Sáng 13/10, tại Hà Nội, Hội Sân khấu Hà Nội tổ chức hội thảo “Xây dựng kịch bản sân khấu đề tài đương đại” với sự tham dự của đông đảo các nhà nghiên cứu, nhà viết kịch, đạo diễn, nghệ sĩ sân khấu Thủ đô. Đây là một hoạt động chuyên môn quan trọng nhằm nhận diện những khoảng trống trong sáng tác kịch bản sân khấu hiện nay, đồng thời đề xuất các giải pháp để đưa những vấn đề của đời sống đương đại lên sàn diễn, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của công chúng.
  • 16 tác phẩm được trao giải thưởng Triển lãm Mỹ thuật Thủ đô năm 2025
    Triển lãm Mỹ thuật Thủ đô năm 2025 do Hội Mỹ thuật Hà Nội tổ chức vừa khai mạc tại Trung tâm Triển lãm văn hóa nghệ thuật Việt Nam (số 2 Hoa Lư, Vân Hồ, Hà Nội). Sự kiện diễn ra đúng dịp kỷ niệm 71 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954 – 10/10/2025), là hoạt động ý nghĩa, thiết thực của giới văn học nghệ thuật Thủ đô, đặc biệt là đội ngũ nghệ sĩ tạo hình.
  • Văn hóa xứ Đoài và nhà thơ Quang Dũng
    Sáng 2/10 tại Hà Nội, Hội Văn nghệ Dân gian Hà Nội tổ chức tọa đàm “Văn hóa xứ Đoài và nhà thơ Quang Dũng” thu hút sự tham dự của nhiều nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, phê bình văn học và văn nghệ sĩ... Chương trình góp phần tôn vinh chân dung thi sĩ tài hoa Quang Dũng - một người con tiêu biểu của mảnh đất xứ Đoài.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Bài 4: Nguồn nhân lực văn hóa nghệ thuật - “lực lượng tiên phong” chấn hưng văn hóa
    Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV khẳng định văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh mà còn là động lực và hệ điều tiết phát triển bền vững. Đặt con người vào trung tâm, Dự thảo nhấn mạnh yêu cầu “chăm lo đội ngũ văn nghệ sĩ” và “ưu tiên phát triển các cơ sở đào tạo văn hóa, nghệ thuật”... Đây không chỉ là bổ sung nhiệm vụ mà là sự tái định vị vai trò của văn học nghệ thuật trong phát triển văn hóa.
  • Đưa làng nghề Hà Nội thành trụ cột phát triển công nghiệp văn hóa Thủ đô
    Thành phố Hà Nội là “đất trăm nghề” và các làng nghề có bề dày lịch sử, số lượng nghề và làng nghề lớn nhất cả nước. Do đó, việc HĐND Thành phố Hà Nội khóa XVI vừa thông qua Nghị quyết về chính sách hỗ trợ bảo tồn, phát triển làng nghề và ngành nghề nông thôn trên địa bàn Hà Nội là cơ sở quan trọng, trụ cột để phát triển công nghiệp văn hóa Thủ đô trong kỷ nguyên mới.
  • 7 bộ phim được giới thiệu trong Tuần phim Ba Lan tại Việt Nam 2025
    Từ ngày 5/12 đến 9/12/2025 tại Hà Nội và từ ngày 10 đến 14/12/2025 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Cục Điện ảnh phối hợp với Hiệp hội các nhà sản xuất phim Ba Lan tổ chức Tuần phim Ba Lan tại Việt Nam 2025. Lễ khai mạc tổ chức lúc 19 giờ 30 ngày 5/12/2025 tại Trung tâm Chiếu phim Quốc gia.
  • “Phù sa ngọt”: Khi câu chuyện xóm Bến đồng hành cùng tầm nhìn xây dựng Thành phố bên sông Hồng
    Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội đã chính thức giới thiệu bộ phim truyền hình “Phù sa ngọt” - series dài 55 tập, phát sóng hằng ngày lúc 20h trên kênh H2. Tác phẩm đánh dấu bước tiếp nối quan trọng trong chuỗi dự án phim truyền hình - phim đặc biệt mà Đài Hà Nội được giao nhiệm vụ sản xuất trong năm 2025, hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng nội dung và truyền thông chiến lược về sự phát triển của Thủ đô.
  • [Podcast] Chùa Láng – “Đệ nhất tùng lâm” của kinh thành Thăng Long xưa
    Chùa Láng có tên chữ là “Chiêu Thiền tự”. Chùa ở làng Yên Lãng (gọi nôm là làng Láng), trước kia thuộc huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, nay thuộc phường Láng, Thành phố Hà Nội.
Đừng bỏ lỡ
Múa bồng Triều Khúc và chèo tàu Tổng Gối: Di sản sống giữa lòng Thủ đô
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO