Múa bồng Triều Khúc và chèo tàu Tổng Gối: Di sản sống giữa lòng Thủ đô
Sáng 4/12, Hội Văn nghệ Dân gian Hà Nội tổ chức cuộc tọa đàm “Diễn xướng dân gian trong lễ hội Hà Nội: Múa bồng Triều Khúc và chèo tàu Đan Phượng”. Qua phần trình bày của nhà nghiên cứu Giang Nguyên Bồi, họa sĩ Giang Nguyên Thái và Giám đốc Trung tâm Văn hóa Thể thao xã Ô Diên Bùi Thị Quyên, những giá trị lịch sử, đặc trưng nghệ thuật và hành trình bảo tồn, phát huy của hai loại hình diễn xướng dân gian độc đáo này đã được làm sáng rõ.
Múa trống bồng - di sản độc đáo của lễ hội Triều Khúc
Theo nhà nghiên cứu Giang Nguyên Bồi, điệu múa trống bống đã xuất hiện từ thế kỷ VIII khi Đức Phùng Hưng - Bố Cái Đại Vương đóng quân tại Triều Khúc để chuẩn bị đánh quân xâm lược nhà Đường, đóng tại thành Tống Bình (Đại La - Hà Nội ngày nay). “Trong nghĩa quân lúc đó không có phụ nữ, Phùng Hưng đã cho binh sĩ cải trang làm giả gái và đeo trống bồng để múa nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí của nghĩa quân trước khi ra trận… Điệu múa trống bồng ra đời từ đó và có truyền thống hơn 13 thế kỷ”.

Từ chỗ là hình thức khích lệ tinh thần trước trận đánh, múa trống bồng trở thành nghi lễ hầu thánh, gắn với tín ngưỡng thờ Đức Phùng Hưng và là điệu múa gia bảo (báu vật của làng) qua nhiều thế hệ.
Theo nhà nghiên cứu Giang Nguyên Bồi, điệu múa bồng mang tính thiêng, liên quan đến triết lý âm - dương và ngũ hành thông qua đội hình và trang phục. Các vũ công tham gia múa đều là nam giả nữ, thể hiện rõ nét lẳng lơ, lúng liếng nhưng cũng lại phải toát ra phong thái nam nhi cùng tinh thần thượng võ. Vũ công tham gia phải là thanh niên chưa vợ, chính gốc làng Triều Khúc, mặt mũi khôi ngô, học hành giỏi giang, vóc dáng dong dỏng. Đội múa trống bồng gồm 4 thanh niên mặc áo trắng, vấn khăn lượt chít khăn mỏ phượng màu đỏ, má phấn môi son, cổ đeo yếm cổ xây cách điệu hình lá sen gắn kim sa, kim tuyến. Hai vạt lụa đen tượng trưng váy lĩnh được thắt bằng bao tượng màu hổ thùy. Trước bụng mỗi người đeo trống bồng sơn đỏ dài khoảng 50cm. Vai và hông choàng dải tua ngũ sắc tượng trưng cho ngũ hành.

Khi trình diễn, 4 người chia thành hai cặp thay phiên nhau múa. Đội hình đánh trống gồm 6 nhạc công đứng xung quanh tượng trưng cho “trời tròn, đất vuông”. Nhạc công giữ vai trò quan trọng, đặc biệt người đánh thanh la cầm trịch tiết tấu nhịp 1/4 dồn dập, tạo khí thế lễ hội rộn ràng. Đến cao trào, cả 4 vũ công cùng vào múa, tạo không khí rộn ràng và linh thiêng. Ngày nay, để tăng sự hoạt náo trong lễ rước, số cặp múa có thể tăng lên từ 3 đến 6 cặp, thậm chí 10 cặp.

Nhà nghiên cứu Giang Nguyên Bồi cũng nhắc đến những thế hệ nghệ nhân đã gìn giữ ngọn lửa múa bồng như nghệ nhân Nguyễn Huy Cá, Nguyễn Gia Trung, Bùi Văn Tốt, Bùi Văn Dẻo, Bùi Văn Lục, Triệu Đình Vạn, Cao Xuân Năm và đặc biệt là nghệ nhân Triệu Đình Hồng - người “nắm bắt được hồn cốt” của vũ điệu và tham gia phục dựng, truyền dạy trong giai đoạn hiện đại. Ông cũng cho hay, điệu múa bồng hiện nay không còn bó hẹp trong lễ hội của làng mà còn được mời đi biểu diễn trong Nam, ngoài Bắc. Không chỉ người dân Triều Khúc tự hào về điệu múa đặc sắc của làng mình mà ngay cả những nhà nghiên cứu văn hóa cũng đánh giá cao giá trị nghệ thuật của điệu múa bồng.

Là người con của quê hương Triều Khúc, họa sĩ Giang Nguyên Thái đã chia sẻ những kỷ niệm khó quên gắn với điệu múa trống bồng. Ông nhớ lại, những năm 1955, có hai cô văn công Trung ương về học múa bồng tại sân nhà chủ tịch xã. Lũ trẻ trong làng, trong đó có ông “ngồi chầu hẫu ở góc sân xem các cô văn công học múa trống bồng”. Ròng rã mấy tháng trời, hôm kết thúc nhìn các chị múa, hai cụ nghệ nhân mỉm cười… hai chị biết mình đã học thành công điệu múa trống bồng.
Họa sĩ Giang Nguyên Thái lý giải, sở dĩ gọi điệu múa này là “con đĩ đánh bồng” vì theo phong tục của làng Triều Khúc, nếu sinh con gái thì gọi là cái “đĩ”, nếu sinh con trai thì gọi là thằng “cu”. Từ “đĩ” ở đây thuần túy là gọi con gái chứ không mang hàm ý xấu. Ông cũng dẫn lại nhận định của GS. Tô Ngọc Thanh để khẳng định thêm giá trị của múa bồng: “Điệu múa con đĩ đánh bồng của làng ông đã làm nên hồn cốt của lễ hội. Có điệu múa này lễ hội Triều Khúc mới có tính độc đáo hơn hẳn các lễ hội khác”.
Hát chèo tàu - di sản sống giữa lòng Thủ đô
Tại buổi tọa đàm, bà Bùi Thị Quyên - Giám đốc Trung tâm Văn hóa Thể thao xã Ô Diên cũng đã giới thiệu tổng quát về hát chèo tàu (hát tàu tượng) - loại hình diễn xướng dân gian đặc sắc của vùng Tổng Gối xưa, nay là xã Ô Diên (Hà Nội). Bà Bùi Thị Quyên cho hay, hội hát chèo tàu lần đầu tổ chức năm 1683 và duy trì 25 năm một lần. Trải qua nhiều thăng trầm lịch sử, có thời gian lễ hội bị gián đoạn hàng chục năm song với tình yêu và nỗ lực gìn giữ của cư dân 4 làng Thượng Hội, Thúy Hội, Vĩnh Kỳ và Phan Long, loại hình nghệ thuật “có một không hai” này đã được khôi phục và truyền dạy, trở thành di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào tháng 5/2025.

Nhiều truyền thuyết gắn với nguồn gốc chèo tàu cho đến nay vẫn được lưu truyền. Có ý kiến cho rằng hội hát nhằm tưởng nhớ Hai Bà Trưng, khi đội quân của Hai Bà từng hành quân qua vùng Tổng Gối. Một cách lý giải khác cho rằng chèo tàu bắt nguồn từ cuộc khởi nghĩa Hắc Y của tướng Văn Dĩ Thành chống quân Minh xâm lược. Đội quân lấy vùng Tổng Gối làm căn cứ, lợi dụng đêm tôi chèo thuyền qua sông để tiêu diệt giặc. Dù theo cách nào, điểm chung của lễ hội hát chèo tàu chứa đựng tinh thần thượng võ, lòng biết ơn tiền nhân và khát vọng giữ gìn bản sắc văn hóa của cư dân Tổng Gối.
Hội hát chèo tàu phát triển rực rỡ từ thế kỷ XVII và hoàn thiện vào thế kỷ XIX. Điểm độc đáo nhất của nghệ thuật này là thành viên tham gia đều là nữ. Mỗi con tàu có một Chúa tàu (50-55 tuổi), hai Cái tàu và mười Con tàu (13-16 tuổi). Đối xứng với tàu là đôi voi cùng hai quản tượng có nhiệm vụ thổi loa tù và làm hiệu, hát đối.

Lễ hội chèo tàu diễn ra từ rằm đến 21 tháng Giêng, kéo dài 7 ngày 7 đêm. Mở đầu, các ca nhi sẽ “hát trình” các bài dâng hương, dâng rượu, “trạo ca” (hát trên thuyền, hát chèo thuyền) và “bỏ bộ” (hát đối đáp giữa tàu, tượng và người đến xem hội). Khi biểu diễn, Chúa tàu đánh thanh la, hai Cái tàu lĩnh xướng, mười Con tàu họa theo. Những bài hát trong chèo tàu phần lớn ca ngợi công đức các danh nhân, đặc biệt là Thành hoàng Văn Dĩ Thành - vị tướng có công lớn trong kháng chiến chống quân Minh thế kỷ XV.
Đề cập tới hành trình làm “sống lại” chèo tàu ở Tổng Gối, bà Bùi Thị Quyên cho biết: Sau kỳ hội cuối năm 1922, chèo tàu bị gián đoạn hơn 70 năm. Đến năm 1998, những người tâm huyết đã thành lập Câu lạc bộ hát chèo tàu Tổng Gối, bắt đầu hành trình “làm sống lại” di sản. Một may mắn lớn là từ những năm 1960, Viện Âm nhạc Việt Nam đã kịp ghi âm nhiều bài hát chèo tàu do các nghệ nhân từng dự hội năm 1922 thể hiện. Băng tư liệu này trở thành “căn cứ gốc” để thế hệ sau học lại. May mắn nữa là cụ Tiến Thị Lục - con gái của người từng đóng vai Cái tàu vẫn còn thuộc nhiều điệu hát đã trực tiếp truyền dạy cho lớp trẻ. Vì lời chèo tàu có tới 90% là thơ lục bát, lại hiện diện trong đời sống qua hát ru, hát giao lưu… nên dù hội không mở suốt nhiều thập niên nhưng “lời ca tiếng hát vẫn không mất đi”.

Những năm gần đây, chính quyền địa phương đã phối hợp chặt chẽ với cộng đồng để duy trì, quảng bá và đưa chèo tàu trở lại đời sống. Các lớp truyền dạy được tổ chức thường xuyên tại trường học và nhà văn hóa. Đến nay, câu lạc bộ đã có hơn 70 hội viên, trong đó 4 người được phong tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú.
Thực tế công tác bảo tồn vẫn còn nhiều khó khăn: nghệ nhân ngày càng cao tuổi, việc đào tạo lớp kế cận gặp trở ngại do độ tuổi ca nương còn đang đến trường, kinh phí hạn chế… Tuy vậy, chính quyền địa phương cam kết tiếp tục “tạo đất diễn” cho chèo tàu trong các chương trình văn nghệ quần chúng ở địa phương, đồng thời lồng ghép di sản vào hoạt động giáo dục để thế hệ trẻ hiểu và tự hào về truyền thống quê hương.

“Dù còn không ít khó khăn phía trước song các nghệ nhân và người dân đều tin rằng với sự quan tâm của các cấp chính quyền cũng như nỗ lực gìn giữ, tình yêu với “đặc sản” nghệ thuật địa phương của mỗi người, chèo tàu sẽ sống mãi với thời gian, là nét đẹp văn hóa của người dân vùng Ô Diên nói riêng và Thủ đô Hà Nội nói chung. Danh hiệu Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia được công nhận năm 2025 là sự ghi nhận xứng đáng đối với loại hình diễn xướng độc đáo này, đồng thời mở ra cơ hội để chèo tàu có thêm nguồn lực bảo tồn, quảng bá ra cộng động rộng lớn hơn; tạo tiền đề để địa phương tổ chức các hoạt động du lịch văn hóa nhắm phát huy giá trị di sản gắn với phát triển kinh tế - xã hội”, bà Bùi Thị Quyên khẳng định.
Ngoài phần trình bày của các diễn giả, những ý kiến tham luận tại tọa đàm cũng đã góp phần làm sâu sắc thêm nhận thức về giá trị lịch sử, nghệ thuật và sức sống bền bỉ của múa bồng Triều Khúc và chèo tàu Tổng Gối. Đây là những di sản quý của cộng đồng cần tiếp tục được bảo tồn, trao truyền và lan tỏa mạnh mẽ hơn nữa trong đời sống đương đại của Thủ đô./.