Lý luận - phê bình

Về Hà Nội cùng Nguyễn Đình Thi

PGS.TS Vũ Nho 11:04 11/10/2024

Tháng 10 năm 1954, Chính phủ kháng chiến và những đoàn quân chiến thắng rời Việt Bắc về Hà Nội. Ngày 10/10/1954 chính thức đánh dấu Thủ đô Hà Nội hoàn toàn giải phóng.

1.jpg

Nhà thơ Nguyễn Đình Thi từng viết về cuộc chiến đấu hào hùng của Hà Nội bảo vệ chính quyền non trẻ:

Hà Nội cháy khói lửa ngợp trời.
Hà Nội hồng ầm ầm rung. Sông Hồng reo!
Thét lên xung phong căm hờn sôi gầm súng.
Bùng cháy, khắp phố ta ơi! Vùng lên chiến sĩ ta ơi!
Trời Hà Nội đỏ máu
Bụi hè đường cuốn bốc tung bay,
xác thù rơi dưới gót giày.
(Ca từ bản nhạc Người Hà Nội)

Và viết về phút chia tay với Thủ đô yêu dấu lên đường đi kháng chiến của người chiến sĩ:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
(Đất nước)

Tháng 10 năm 1954 lịch sử, nhà thơ về Hà Nội trong một ngày “mưa tầm tã”, và những cảm xúc dạt dào tuôn chảy ngay trong giờ phút đầu tiên của ngày trở về. Tác giả viết bài thơ “Ngày về” có lẽ rất nhanh, và ghi thời gian hoàn thành ở cuối bài là ngày 8/10/1954, hai ngày trước khi Hà Nội sạch bóng quân thù.

Hà Nội chiều nay mưa tầm tã
Ta lại về đây giữa phố xưa
Nước hồ Gươm sao xanh dịu quá
Tháp Rùa rơi lệ cười trong mưa
Ta nhìn, hai mắt ta nhìn mãi
Lòng ta như lửa đốt dầu sôi
Nằm lại những chân rừng đầu núi
Hôm nay bao đồng chí đâu rồi
Ta đứng khóc giữa trời mưa hắt
Leng keng chuông xe điện đổ hồi
Lòng ta bỗng như dòng suối mát
Ta đã về đây, Hà Nội ơi!
Hà Nội trán em còn ứa đỏ
Những áo hoa còn lấm bùn nhơ
Nhưng mỗi góc tường bao máu rỏ
Còn tươi nguyên như mỗi lá cờ
Từ khắp bốn phương trời lửa đạn
Đàn con về sau những năm xa
Cởi súng gạt mồ hôi trên trán
Ta lại xây Hà Nội của ta
(Ngày về, 8/10/1954)

ngay-ve-2.jpg

Viết nhanh và viết thành công ngay một bài thơ như vậy, vì tình yêu Hà Nội trong lòng nhà thơ lúc nào cũng nồng nàn thường trực. Trở về Thủ đô giải phóng trong một chiều “mưa tầm tã” là một cuộc trở về đặc biệt. Cảm xúc đầu tiên là cảm xúc vui mừng rơi nước mắt. Những phố xưa còn đó. Nước hồ như xanh dịu hơn. Và bao người rơi lệ:

Tháp Rùa rơi lệ cười trong mưa

Nhà thơ đã nhân hóa cảnh vật như thấy Tháp Rùa cũng rơi lệ cười, hoặc cũng có thể hiểu là người về rơi lệ, cười khi gặp lại Tháp Rùa cổ kính. Cảm động đến trào nước mắt khi về lại Hà Nội có lẽ là cảm xúc chung của tất cả những người trong đoàn quân chiến thắng.
Trong bài thơ “Lại về”, nhà thơ Tố Hữu đã viết:

Hôm nay về lại đây Hà Nội
Giàn giụa vui lên ướt mắt cười

Cảm xúc vui sướng đến trào nước mắt là cảm xúc có thật của những người về. Riêng nhà thơ Nguyễn Đình Thi, còn cảm thấy một cảm xúc khác:

Lòng ta như lửa đốt dầu sôi

Bởi vì có được ngày về hôm nay, là bao xương máu hi sinh của đồng đội, đồng chí, những con người vắng mặt ngày về:

Nằm lại những chân rừng đầu núi
Hôm nay bao đồng chí đâu rồi

Nhưng sự đau xót, thương tiếc cũng không át được niềm vui chiến thắng.

Tiếng tàu điện leng keng làm cho nhà thơ lắng lại và niềm vui trào lên như hình ảnh suối mát:

Leng keng chuông xe điện đổ hồi
Lòng ta bỗng như dòng suối mát
Ta đã về đây, Hà Nội ơi!

Điểm nhìn của tác giả chuyển từ Tháp Rùa ra xung quanh Hà Nội, hướng tới vầng trán em, những áo hoa còn lấm bùn và những vết máu ở góc tường như còn đó dấu vết và tàn tích đau thương, mất mát của chiến tranh, của HàNội trong tay giặc. Một lần nữa, cảm xúc tự hào lại vượt lên mất mát:

Hà Nội trán em còn ứa đỏ
Những áo hoa còn lấm bùn nhơ
Nhưng mỗi góc tường bao máu rỏ
Còn tươi nguyên như mỗi lá cờ

Về chiến thắng Điện Biên, Nguyễn Đình Thi từng viết câu thơ ca ngợi đất nước:

Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa
(Đất nước)

Bây giờ về Hà Nội, ông ca ngợi những đứa con về từ bốn phương trời lửa đạn đã sẵn sàng cho việc xây dựng lại Thủ đô. Lời thơ trầm xuống, lắng lại, bình tĩnh, tự tin:
Từ khắp bốn phương trời lửa đạn
Đàn con về sau những năm xa
Cởi súng gạt mồ hôi trên trán
Ta lại xây Hà Nội của ta

Với Nguyễn Đình Thi, bài thơ “Ngày về” ghi dấu ấn Thủ đô Hà Nội ngày giải phóng. Ngoài niềm vui, cảm động rơi lệ, niềm thương xót đồng chí đồng đội hi sinh, sự tự hào chiến thắng còn có thêm tinh thần sẵn sàng cho công cuộc tái thiết Thủ đô. Hơn thế nữa, viết về Hà Nội, Nguyễn Đình Thi còn có bài thơ “Đất nước”, có ca khúc “Người Hà Nội”, và sau này là bài “Chia tay trong đêm Hà Nội”. Những bài thơ, ca khúc như thể dấu mốc lịch sử gắn liền với sự thăng trầm của Hà Nội, Thủ đô yêu dấu, trái tim của cả nước trong hai cuộc kháng chiến trường kì./.

Bài liên quan
(0) Bình luận
  • Phát huy vai trò của văn nghệ sĩ Thủ đô trong phát triển công nghiệp văn hóa
    Hà Nội - Thủ đô tự nhiên của lưu vực sông Hồng, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước từ ngàn xưa đã là nơi hội tụ và đào luyện nhân tài. Phần lớn danh nhân Việt Nam từng sống, làm việc, sáng tạo ở Thăng Long - Hà Nội, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc. Ở mảnh đất hội tụ tinh hoa văn hóa bốn phương ấy, con người Thăng Long mang trong mình nét tài hoa, đa tài, đa nghệ, thấm đẫm bản sắc trí tuệ và tinh thần sáng tạo. Trong đó, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ - những người sinh ra, lớn lên hoặc gắn bó với Hà Nội đã góp phần tạo nên diện mạo văn hóa, nghệ thuật Thủ đô bằng nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, khẳng định sức sống trường tồn của văn hóa nghìn năm. Họ chính là nguồn lực đặc biệt không thể thiếu trong hành trình phát triển công nghiệp văn hóa của Hà Nội hôm nay.
  • Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong bối cảnh hội nhập
    Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết của các cấp, các ngành mà còn là sứ mệnh đặc biệt của đội ngũ văn nghệ sĩ Thủ đô. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, việc xác định rõ những trọng tâm trong xây dựng hệ giá trị văn hóa là hết sức cần thiết.
  • Những lưu dấu văn hóa về Hà Nội qua ngôn từ văn chương
    Ngay từ nền văn học Việt Nam trung đại, những trước tác về miền đất thiêng (đất thánh) Đông Đô - Thăng Long - Hà Nội đã được ghi khắc trong sử văn: “Chiếu dời đô” (thế kỷ XI) của Lý Công Uẩn, “Thượng kinh ký sự” (thế kỷ XVIII) của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, “Vũ trung tùy bút” (thế kỷ XIX) của Phạm Đình Hổ, “Long Thành cầm giả ca” (thế kỷ XIX) của Nguyễn Du, “Thăng Long thành hoài cổ” (thế kỷ XIX) của Bà Huyện Thanh Quan.
  • Hai thể thơ mới namkau và 1-2-3 trong lịch sử phát triển của các thể thơ dân tộc
    Khoảng mươi năm gần đây, trên thi đàn Việt xuất hiện hai thể thơ mới: namkau và 1-2-3. Là sản phẩm của thế kỷ công nghệ số, những thể thơ này còn đang ở thời kỳ phôi thai trứng nước.
  • Văn Cao, mùa bình thường...
    Văn Cao là một người tài hoa. Gọi ông là nhạc sĩ, thi sĩ hay họa sĩ đều được. Song tôi nghĩ, gọi ông là nhạc sĩ vẫn chuẩn xác hơn cả, bởi đó là điểm khởi đầu cũng là lĩnh vực ông bộc lộ tài năng nhất và cũng thành công nhất. Nhưng hãy khoan bàn về điều này, tôi muốn phác họa đôi nét về con người Văn Cao qua ấn tượng của mình sau hai lần gặp gỡ...
  • GS.TS Kiều Thu Hoạch: Người cần mẫn nghiên cứu văn hóa dân gian
    GS.TS Kiều Thu Hoạch năm nay bước sang tuổi 92. Đi qua hành trình gần trọn một thế kỷ, ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị. Đó là sự kết tinh trí tuệ của một học giả Hán Nôm uyên bác cùng hành trình trải nghiệm học thuật và cả sự tiếp xúc với các bậc túc nho nhiều thế hệ. Những công trình ấy đã mở ra nhiều hướng tiếp cận khả thi trong nghiên cứu lịch sử, văn hóa Việt Nam.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
Về Hà Nội cùng Nguyễn Đình Thi
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO