gia long

Lễ tắm tượng nhị vị ở chùa Đông Phù
Vào đời Lý Thánh Tông (1054 - 1072) hoàng hậu sinh đôi được hai công chúa, chị là Từ Thục và em là Từ Huy. Lớn lên, cả hai công chúa sớm giác ngộ cảnh vô thường nên bèn xin vua cha cho xuất gia tu hành. Bị vua khước từ, hai công chúa lén bỏ hoàng cung về tu ở chùa Long Hưng, nay thuộc thôn Đông Phù, xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì).
  • Phạm Quý Thích – nhà giáo, nhà “Kiều học” tiên phong
    Phạm Quý Thích, tên tự là Dữ Đạo, tên hiệu là Lập Trai, biệt hiệu Thảo Đường cư sĩ, sinh ngày 19 tháng 11 năm Canh Thân (tức này 25 tháng 12 năm 1760), người xã Hoa Đường, huyện Đường An (nay thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương), sau dời lên kinh đô Thăng Long, ngụ tại phường Báo Thiên, huyện Thọ Xương (nay là phường Hàng Vải, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội).
  • Cao Huy Diệu – văn nhân ưu thời mẫn thế
    Chúng ta vốn đã quá quen thuộc với quan niệm của người xưa về mối quan hệ hai chiều giữa “địa linh” và “nhân kiệt”, trong đó yếu tố “địa linh” quyết định “nhân kiệt” và yếu tố “nhân kiệt” lại tác động làm nên “địa linh” như một chuỗi nhân quả bất tận. Thăng Long - Hà Nội vốn được xác định từ sớm với đặc trưng địa linh của mình và cũng sớm hình thành nên các làng, các vùng với những dòng họ nối đời khoa bảng. Vùng đất Phú Thị thuộc huyện Gia Lâm (Hà Nội) là một không gian địa lí như thế và dòng họ Cao ở đất này là một dòng họ như thế. Trong cả hai trục tọa độ không gian, thời gian ấy, danh nhân Cao Huy Diệu (Thế kỷ XVIII-XIX) - danh thần dưới triều Gia Long (1762 - 1820) - là một trong những con người tiêu biểu cho dòng họ Cao, cho quê hương Phú Thị và cho Thăng Long - Hà Nội nghìn năm văn hiến.
  • Phạm Đình Hổ - học giả, nhà văn viết ký sự tài
    Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) tự là Tùng Niên, Bỉnh Trực, hiệu Đông Dã Tiều, quê ở làng Đan Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, nay thuộc xã Nhân Quyền, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương. Sinh thời, ông không phải là một nhân vật nổi bật bởi tài năng chính trị, nhưng lại nổi tiếng về văn chương học vấn, tên tuổi của Phạm Đình Hổ cũng được vua Minh Mạnh biết đến với tư cách là một trong những người có tài văn chương nổi tiếng nhất Bắc thành.
  • Vũ Trinh - cây bút canh tân thể loại truyền kỳ trung đại
    Vũ Trinh (1759 - 1828) tên tự là Duy Chu, hiệu là Nguyên Hanh, biệt hiệu là Lai Sơn, Lan Trì Ngư giả, đạo hiệu Hải Âu Hoà thượng, người làng Xuân Lan, huyện Lương Tài, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Ông xuất thân từ một gia đình có nền nếp thi thư. Ông nội của Vũ Trinh hiệu là Nghi Huy, đỗ Tiến sĩ đời Lê, làm quan đến Thượng thư bộ Binh; cha tên là Triệu (có sách ghi là Thiệu), cũng đỗ Hương tiến, làm đến chức Tham nghị. Vũ Trinh là người thông minh từ nhỏ, 17 tuổi dự thi Hương, đỗ Hương tiến, được tập ấm chức Tri phủ Quốc Oai, tước hiệu là Lan Trì bá.
  • Công chúa Lê Ngọc Hân với khúc Ai Tư Vãn
    Cuộc hôn nhân giữa công chúa Lê Ngọc Hân và người anh hùng áo vải đất Tây Sơn Nguyễn Huệ là một mối kỳ duyên. Lê Ngọc Hân, cô công chúa thứ chín trong số con gái vua Lê Cảnh Hưng (1740-1786) đã trở thành một nhân vật lịch sử và văn học mà tên tuổi sẽ còn mãi bên cạnh tên tuổi Quang Trung Nguyễn Huệ, người có công khai thông nền thống nhất đất nước sau hơn 200 năm bị phân chia thời Trịnh - Nguyễn, đánh tan 29 vạn quân Thanh xâm lược, giữ vững nền độc lập dân tộc, kiến lập vương triều Tây Sơn, tạo dựng một nền chính trị, ngoại giao, một nền văn hóa mang dấu ấn riêng khá rõ.
  • Phan Huy Thực – người dịch Tỳ Bà Hành , nhà thơ Nôm tiêu biểu của dòng văn Phan Huy
    Ở Việt Nam thời xưa, Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị (772 - 816, đời Đường) từng được một số người dịch ra Nôm. Ví dụ, trong thi tập của Phạm Nguyễn Du (1739 - 1788) Thạch Động tiên sinh thi tập, có chép một bản Quốc âm diễn Tỳ bà hành. Hoặc bản dịch Tỳ bà hành của Phan Văn Ái (1850 - ?)... Nhưng bản dịch nổi tiếng, quen thuộc nhất từ trước tới nay vẫn là bản được ghi nhận là của Phan Huy Vịnh. Thực ra, đó là một nhầm lẫn cần được làm sáng tỏ để trả lại cho văn học sử đúng tên tuổi nhà dịch thuật ưu tú kia.
  • Ngô Thì Điển – người khởi soạn Ngô gia văn phái
    Tác phẩm đồ sộ Ngô gia văn phái được rất nhiều người biết, song lại ít ai nói đến soạn giả bộ tùng như nổi tiếng này là Ngô Thì Điển, con trai cả danh sĩ Ngô Thì Nhậm ở làng Tả Thanh Oai, Thanh Trì, Hà Nội.
  • Đoàn Huyên – quan chức, nhà giáo, nhà thơ
    Theo Ứng Khê niên phả – Ứng Khê là biệt hiệu của Đoàn Huyên, sinh vào giờ Tỵ ngày Kỷ Sửu 25 tháng Bảy năm Mậu Thìn, niên hiệu Gia Long thứ 7 (1808). Cha ông là Quan viên Đoàn Trọng Khoái. Ứng Khê người làng Hữu Thanh Oai, xã Hữu Hòa, huyện Thanh Trì - Hà Nội. Ông đỗ cử nhân năm 23 tuổi và làm quan đến Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ kiêm Đốc học.
  • Trường tư thục Thăng Long, trung tâm của phong trào thanh niên học sinh trước Cách mạng tháng Tám (quận Hoàn Kiếm)
    Được thành lập từ năm 1928, 6 năm đầu trường có tên là Trường tư thục Hàng Cót, từ năm 1935 đến 1946 là Trường tư thục Thăng Long, nay là Trường Tiểu học Thăng Long thuộc phường Hàng Bông, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
  • Chùa Thanh Ninh (quận Ba Đình)
    Chùa Thanh Ninh còn gọi là chùa Am Cây đề ở số nhà 2 phố Lê Trực, phường Điện Biên, quận Ba Đình, Hà Nội.
  • Chùa Phượng Trì (huyện Đan Phượng)
    Chùa Phượng Trì có tên chữ là Thiên Phúc tự, toạ lạc ở khu vực trung tâm của làng Phượng Trì, thuộc thị trấn Phùng, huyện Đan Phượng, Hà Nội.
  • Chùa Hương Trai (huyện Hoài Đức)
    Chùa Hương Trai hiện nay tọa lạc tại xã Dương Liễu, huyện Hoài Đức, Hà Nội.
  • Chùa Hiệp Thuận (huyện Phúc Thọ)
    Chùa Hiệp Thuận có tên chữ là Đại Bi tự, tên nôm là chùa Bà Tề, thuộc thôn Hiệp Thuận, xã Hiệp Thuận, huyện Phúc Thọ, ngoại thành Hà Nội, cách trung tâm Thủ đô khoảng 35km về phía tây.
  • Chùa Hoàng Trung (huyện Thanh Oai)
    Chùa Hoàng Trung tọa lạc tại xã Hồng Dương, huyện Thanh Oai, Hà Nội.
  • Công bố khai quật khảo cổ nền điện Cần Chánh - Đại nội Huế
    Sau hơn một tháng triển khai, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế (Thừa Thiên - Huế) và Bảo tàng Lịch sử Quốc gia đã công bố kết quả khai quật khảo cổ điện Cần Chánh (Đại nội Huế).
  • Chùa Đinh Xuyên (huyện Ứng Hòa)
    Chùa Đinh Xuyên hiện nay thuộc xã Hòa Nam, huyện Ứng Hòa, Hà Nội.
  • Chùa Đại Phùng (huyện Đan Phượng)
    Chùa Đại Phùng hiện nay thuộc xã Đan Phượng, huyện Đan Phượng, Hà Nội.
  • Chùa Diên Phúc (huyện Mê Linh)
    Chùa Diên Phúc thuộc thôn Khê Ngoại, xã Văn Khê, huyện Mê Linh, Thành phố Hà Nội.
  • Chùa Cổ Loa (huyện Đông Anh)
    Chùa Cổ Loa có tên chữ là Bảo Sơn tự. Chùa Cổ Loa thuộc xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội.
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO