Đến Mễ Trì yêu rồi nhớ
Tốt nghiệp đại học, tôi rời ký túc xá. Cũng giống như đại đa số những sinh viên tỉnh lẻ khác, tôi loay hoay với chồng hồ sơ xin việc, đêm chỉnh sửa, sáng lại lóc cóc đạp xe hoặc bắt xe buýt đi phỏng vấn, tìm nhà trọ.
Đó là khoảng thời gian khó khăn nhất trong cuộc đời của tôi. Tôi tưởng chừng như cả thế giới đang quay lưng lại với mình. Việc thì chưa kiếm được, nhà trọ đi rong ruổi hết ngày này sang ngày khác cũng chẳng tìm được nơi phù hợp. Chỗ ưng ý thì giá cả lại cao, chỗ phù hợp giá tiền thì lụp xụp, rách nát, không khác gì là chỗ tạm bợ, ổ chuột. Và sau đó là chuỗi những ngày nằm dài tự vấn, trách móc, nghi ngờ năng lực bản thân, lòng tốt xung quanh và cả tương lai đang chông chênh trước mắt. Thậm chí tôi đã từng có ý nghĩ bỏ Hà Nội mà đi tới một vùng đất khác.
Rồi một cơ duyên đưa tôi đến với vùng đất Mễ Trì. Thú thật đây là địa danh tôi chưa từng biết và cũng chưa từng đặt chân tới. Nhưng lạ thay, cái tên gọi “Mễ Trì” ấy lại gợi lên trong tôi một sự thân thương đến lạ kỳ.
Chắc hẳn bạn sẽ bất ngờ lắm khi tôi nói rằng người dân gốc Mễ Trì có chất giọng như ở một vùng quê nào đó. Đó là sự thật! Tôi không có ý phân biệt vùng miền hay chất giọng, bởi tôi cũng là một người tỉnh lẻ ra Hà Nội học tập rồi ở lại làm việc. Phải chăng chính vì chất giọng của người dân Mễ Trì khác với “chất giọng Kinh kỳ” nghìn năm Văn Hiến như nhiều người nghe và ngưỡng mộ nên tôi mới cảm giác thân quen, gần gũi là như vậy?!
Khoảng mấy chục năm về trước, Mễ Trì là một vùng đất hoang sơ, người dân chủ yếu làm nông nghiệp. Khi địa chính, đô thị mở rộng thì Mễ Trì mới phát triển như ngày nay. Một sự phát triển vượt bậc, sầm uất. Nhiều tòa nhà cao tầng được xây lên, đường sá thông thoáng, giao thông nhộn nhịp xe cộ.
Tôi cũng như bao nhiêu người tứ xứ đổ về thành phố nói chung, Hà Nội nói riêng luôn có một tâm lý dè chừng con người nơi đây. Bởi đầy rẫy những con người ngoài kia chẳng biết ai tốt, ai xấu với mình nên đề phòng là phương án tốt nhất. Hoặc có thể trong đầu chúng tôi được “tiêm nhiễm” toàn tin tức xấu nên mới có tâm lý dè chừng như vậy. Nhưng từ khi đến Mễ Trì, suy nghĩ của tôi đã thay đổi.
Tôi đã gặp được bác chủ nhà tốt bụng. Vẫn nhớ những ngày đầu tiên bơ vơ chuyển đến trong tay không có một đồ đạc gì ngoài mấy bộ quần áo cũ và thùng sách năm tháng sinh viên còn giữ lại. Bác đã cho tôi mượn một chiếc nồi cơm điện, vài vật dụng cá nhân như xoong nồi, thau chậu. Tuy giá trị không đáng là bao nhưng nó lại rất quý giá đối với một đứa mới tốt nghiệp chưa có việc làm như tôi. Sau khi ổn định chỗ ở, tôi trả lại bác nhưng bác không lấy, bảo tôi để lại mà dùng. Bác bảo sở dĩ lúc đầu nói cho tôi mượn để tôi đỡ ngại. Tôi xúc động, nghẹn ngào thầm cảm ơn bác vô cùng tận.
Bác chủ có gần chục phòng cho thuê. Bác bảo tất cả nhờ phước lộc cha mẹ để lại, bác sống giản đơn và từng là một người nghèo nên thấu hiểu người những người lao động mưu sinh. Bác chẳng bao giờ thúc giục người thuê trọ phải đóng tiền sớm, thậm chí bác còn cho những người khó khăn nợ đến vài tháng trọ. Ngày lễ, mùng Một hay ngày Rằm bác chia từng túi hoa quả, bánh kẹo rồi gõ cửa từng nhà để phát lộc.
Người tứ xứ đến Mễ Trì rồi mặc nhiên tự cho mình là… người dân Mễ Trì. Khu trọ nghèo của chúng tôi thường hay đùa với nhau như vậy. Cái chân chất, chân thành của người dân ở đây khiến cho tôi cảm giác mọi thứ thành ra thân thuộc như ở nhà. Và khiến cho chúng tôi luôn cảm thấy mình phải sống như đúng người dân Mễ Trì. Chúng tôi hay kéo nhau ra đầu cổng làng Anh Sơn ngồi tụm năm tụm bảy nhâm nhi từng cốc trà đá ngồi ngắm dòng người qua lại và lắng nghe chuyện đời, chuyện người.
Nhiều hộ gia đình “phất” lên hay bỗng dưng giàu có khi đất được đền bù bởi dòng chảy đô thị hóa. Họ coi đó là một tài sản kếch xù để rồi ăn chơi, nhảy múa, không màng tới lao động. Nhưng với người dân Mễ Trì họ không như vậy. Họ giàu lên, tuy không còn đất để canh tác nhưng họ vẫn kiếm lấy cái nghề để duy trì cuộc sống. Người mở hàng ăn nhỏ, sáng sắp dăm ba chiếc ghế nhựa mang ra chỗ ngã ba, ngã tư bầy biện ngồi bán xôi, chè. Người lại mở quán sửa chữa xe máy ngay trước cửa nhà. Người đi bán trà đá, ngô, khoai nướng hay món đồ ăn thời vụ.
Tôi học được ở họ cách chắt chiu, sự tảo tần, chịu thương chịu khó. Nhiều lúc tôi cảm tưởng tôi như đang ở quê, chỉ có khác ở Mễ Trì sầm uất, xe cộ nhộn nhịp, còn tình người, tính cách thì lại y chang người dân quê tôi. Tôi nhớ tên tất cả các cô, các chị từ hàng cá, hàng thịt tới hàng rau. Các cô cũng nhớ mặt khách hàng của mình, tư vấn và đưa giá hợp lý. Thậm chí thấy những người nghèo, học sinh, sinh viên họ còn lấy rẻ, thêm thắt khi thì mớ hành, lúc lại quả cà chua. Những buổi sớm rảo bước đi chợ, con ngõ nhỏ lọt thỏm dưới những bóng nhà, thấy muôn vàn khuôn mặt cười, nói rộn ràng thốt nhiên thấy lòng mình cũng thêm phấn khởi.
Và ẩn sâu trong những tòa cao tầng đó vẫn còn chút quê len lỏi. Bạn cũng sẽ bất ngờ như tôi thôi khi biết rằng Mễ Trì là vùng đất làm cốm nức tiếng, ngang ngửa với thương hiệu cốm làng Vòng như mọi người thường biết đến trong tác phẩm văn chương. Tôi nhớ những lần đi vào những con ngõ, mùa thu đương thì, se se lạnh, hương thơm cốm da diết thoang thoảng. Những sợi rơm xanh non được rải đầy. Tôi cứ ngỡ như đang đi giữa làng quê. Phố gì mà chất đầy rơm thơm? Thật quá là đặc biệt! Tôi cứ ngẩn ngơ mãi trước màu xanh của những thân cây rơm và những hạt cốm xanh còn sót lại.
Người Mễ Trì bây giờ làm cốm ít hơn ngày xưa. Âu cũng là sự phát triển nhiều ngành nghề khác nhau cũng như đất đai đã đô thị hóa. Vào những đêm khuya mất ngủ hay bận làm việc gì đó bạn sẽ nghe những tiếng chày giã cốm thình thịch. Âm thanh khiến cho tôi nhớ nhất mỗi khi nhớ về Mễ Trì. Họ làm xuyên đêm, thâu sáng để có được mẻ cốm thơm lừng đưa đến tận tay người tiêu dùng. Người làm cốm giờ đây chủ yếu là người trung tuổi và người già – những người muốn được nghề truyền thống gìn giữ, lưu lại mai sau.
Khi nói chuyện với những người làm cốm tôi mới thấy được sự tận tụy, nâng niu với một nghề truyền thống biết nhường nào. Và cũng thấy rõ sự trăn trở về thế hệ mai sau, liệu nghề làm cốm ở Mễ Trì có còn được truyền nối, khi mà thế hệ trẻ bây giờ chẳng mặn mà với nghề của cha ông để lại. Bởi chỉ người làm cốm mới hay sự cực nhọc, không lời lãi gì nhiều.
Cái sự mai một đó hiện rõ khi tôi ghé Chợ Cốm ở Mễ Trì. Hẳn nhiên ngày xưa Chợ Cốm này dựng lên là để người ta buôn bán cốm vậy mà ngày nay nó như một chợ dân sinh bình thường. Cũng có người bán cốm nhưng rải rác, lưa thưa.
Mỗi lần bạn bè tới chơi, hay có dịp gửi đi đâu đó thức quà Hà Nội tôi luôn chọn cốm Mễ Trì để đãi, biếu tặng mọi người. Hạt cốm dẻo thơm ăn kèm với chuối tiêu trong một ngày thu se lạnh, câu chuyện về Hà Nội càng thêm đậm đà. Lòng tôi cũng chộn rộn vui khi thấy cốm Mễ Trì theo người đi khắp năm châu bốn bể.
Dịch Covid-19 ập đến làm đổi thay không biết bao nhiêu số phận con người. Tôi không khỏi nằm ngoài trong guồng xoay dịch bệnh đó. Tôi rời Hà Nội, rời Mễ Trì về quê sinh sống. Khi về quê rồi, tôi mới thấm thía những câu chữ của nhà thơ Chế Lan Viên viết: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. Có những ngày tôi da diết nhớ Mễ Trì vô cùng. Hà Nội nói chung, Mễ Trì nói riêng đã lưu giữ một phần đời với biết bao nhiêu kỷ niệm và ân tình nên đã “hóa tâm hồn” trong tôi.
Hết dịch tôi lại khăn gói trở lại Hà Nội, vẫn biết còn rất nhiều vùng đất để tôi khám phá, trải nghiệm nhưng tôi vẫn chọn Mễ Trì là chốn dừng chân. Tôi gặp lại những con người với hình dáng thân quen ấy. Mễ Trì mang hình hài của phố nhưng thẳm sâu thì vẫn chân chất của một vùng quê dấu yêu với những con người hồn hậu, nhiệt thành. Và mỗi độ thu sang hương cốm vẫn thoang thoảng thơm dịu nhẹ.
Tôi không chắc mình có thể gắn bó với vùng đất này đến bao giờ. Nhưng chắc chắn rằng tôi đã yêu Mễ Trì như yêu chính quê hương của tôi. Và dẫu có rời xa mười năm, hai mươi năm hay thậm chí lâu hơn nữa tôi cũng sẽ chẳng bao giờ quên được năm tháng sống ở Mễ Trì. Với tôi Mễ Trì đến rồi để yêu, đi xa rồi lại nhớ./.
Tác phẩm tham dự cuộc thi viết "Hà Nội và tôi" của tác giả Cao Văn Quyền. Thông tin về cuộc thi xem tại đây. |