Cuộc thi viết Hà Nội & Tôi

Ô Diên, thành cũ người xưa

Phan Anh 09:18 12/03/2024

Một ngày cuối năm, từng chùm nắng mùa vàng như tơ óng ánh tỏa xuống mặt đất làm cho màn sương khói mờ ảo của đợt gió lạnh tăng cường tan biến, khiến cho vùng quê ngoại thành Hà Nội trở nên căng tràn nhựa sống. Màu nắng hanh hao chảy dài trên những vòm cây xanh biếc, ruộm vàng những góc tường, vắt ngang những mái ngói thâm nâu, nhảy nhót tung tăng cùng những làn gió thoảng trên cánh đồng hoa cúc vàng mênh mang làm cho chúng tôi quên đi cái lạnh khô se sắt đang nứt nẻ thịt da để tìm về quê hương của Tô Hiến Thành, quan đại thần phụ chính nhà Lý và thăm thú, tìm hiểu, vãng cảnh miền đất một thời từng là kinh đô của nhà nước Vạn Xuân với tên gọi là thành Ô Diên.

tuong-va-den-tho-danh-nhan-to-hien-thanh.jpg
Tượng và đền thờ danh nhân Tô Hiến Thành

Ô Diên thành cũ là một vùng đất rất cổ nay được xác định nằm ở xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng. Cách đây khoảng mười lăm thế kỷ, miền đất từng đóng vai trò là trung tâm chính trị, quân sự quan trọng của triều đình Hậu Lý Nam Đế - Lý Phật Tử. “Đại Việt sử ký toàn thư” của Ngô Sỹ Liên có ghi lại rằng: Năm 557, Lý Phật Tử đem quân xuống miền Đông, đánh nhau với vua Triệu Việt Vương ở huyện Thái Bình, năm lần giáp trận, chưa phân thắng bại mà quân của Phật Tử hơi lùi, ngờ là vua có thuật lạ bèn giảng hòa xin ăn thề. Vua nghĩ rằng Phật Tử là người họ của Lý Nam Đế nên không nỡ cự tuyệt, bèn chia địa giới ở bãi Quân Thần (phường Thượng Cát thuộc quận Bắc Từ Liêm) cho ở phía Tây của nước, Phật Tử dời đến đóng đô ở thành Ô Diên (xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng). Sau Phật Tử cho con trai là Nhã Lang lấy con gái của vua là Cảo Nương. Vua bằng lòng gả. Vua rất yêu quý Cảo Nương nên cho Nhã Lang ở rể. Trong thời gian ở rể, qua Cảo Nương, Nhã Lang biết được bí mật về sức mạnh móng rồng của Triệu Việt Vương. Sau đó Nhã Lang đã ngầm đổi móng rồng rồi về cùng cha đánh úp nhà vua và chiếm lấy nước. Sau khi chiếm được nước, Lý Phật Tử dời đô về Phong Châu. Lý Phật Tử giao thành Ô Diên cho Biệt suy là Lý Phổ Đỉnh cai quản. Sự kiện chính trị trọng đại này cũng đã được Lê Ngô Cát phản ánh trong “Đại Nam Quốc sử diễn ca” như sau:

“Triệu Vương giáp trận Thái Bình

Lý thua rồi mới thu binh xin hòa

Triệu về Long Đỗ Nhị Hà

Lý về Hạ Mỗ, ấy là Ô Diên

Hai nhà lại kết nhân duyên

Nhã Lang sánh với gái hiền Cảo Nương” …

“Tình con rể nghĩa vợ chồng

Tin nhau ai biết ra lòng lừa nhau

Lâu la mới ngỏ tình đâu

Nhã Lang trộm lấy đầu mâu đổi liền

Trở về giả chước vấn yên

Giáp binh đâu đã băng miền kéo sang

Triệu Vương đến bước vội vàng

Tình riêng còn chửa dứt đường cho qua

Đem con chạy đến Đại Nha

Than thân bách chiến phải ra đường cùng”

Đất Ô Diên thời ấy từng có một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng khi nằm kề bên ba dòng sông nổi tiếng: sông Hồng, sông Hát, sông Nhuệ. Trước khi trở thành kinh đô của Lý Phật Tử vùng đất này là một địa bàn gắn liền với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương của Lý Bí và sau khi Lý Phật Tử dời thành về Phong Châu thì thành Ô Diên vẫn là một quân thành của tướng Lý Phổ Đỉnh. Như vậy, ít nhiều đất Hạ Mỗ cũng gắn liền với không ít các sự kiện trọng đại của đất nước trong suốt thế kỷ thứ VI và thứ VII. Đặc biệt, ở vùng đất linh thiêng ấy khoảng năm thể kỷ sau cũng là quê hương của quan Thái úy Tô Hiến Thành (1102 - 1179), một người tài đức vẹn toàn, nổi tiếng là công minh chính trực, từng phụng sự ba triều vua Lý: Lý Thần Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông và có nhiều công lao trong việc chống giặc ngoại xâm, mở mang bờ cõi.

Đôi lời nhắc lại về vùng đất đế đô và nhân kiệt một thủa của Hạ Mỗ như vậy cũng là muốn tỏ rõ cái căn cớ, mục đích mà đôi chân đã bị dẫn dụ tìm về. Dường như sự dẫn dụ ấy chẳng phải chỉ riêng mình chúng tôi mà chắc hẳn còn có rất nhiều người cũng vậy từ bao đời nay. Tuy chẳng còn vàng son lộng lẫy nhưng thời nào Hạ Mỗ cũng có không ít những tao nhân mặc khách tìm đến để ngưỡng vọng cùng hoài niệm trong những luyến tiếc:

“Núi sông Lý - Triệu tan tành

Diều bay mấy chốn một mình thương ôi!

Chiến hòa cuộc, phó nước trôi

Cỏ xanh mây biếc loi thoi đầy thành.”

(Ô Diên cổ thành – Khuyết danh)

Chúng tôi dạo bước trên đất Ô Diên thủa nọ thấy Hạ Mỗ hôm nay đã có nhiều đổi thay. Diện mạo của làng quê ngày nào còn thưa thớt dân cư và chưa được trù phú thì nay đã thay da đổi thịt. Nhà cao tầng mọc lên san sát, đường cái rộng thênh thang trải nhựa phẳng lỳ, đen bóng đẹp như phố thị, con mương chảy qua làng và khúc sông thủa xưa sót lại làm thành cái hồ tựa như bán nguyệt được kè đá thoai thoải vững chắc bên đền Văn Hiến, lăng mộ Thái Úy cùng đình Vạn Xuân, chùa Giác Hải, miếu Hàm Rồng… giữa muôn vàn cây xanh đang vươn cành rợp bóng, đêm về lại hòa trong ánh điện tỏa sáng lung linh khiến cho đất Ô Diên xưa đẹp một cách cổ kính mà tráng lệ.

Về Hạ Mỗ hôm nay, ngắm nhìn các công trình, di tích đền đài đã được xếp hạng nhưng mỏi mắt vẫn chẳng thấy dấu vết nào của kinh thành Ô Diên thủa trước. Dấu tích của tiền nhân nay đã vắng bóng. Ngẫm cũng phải thôi, lịch sử đất nước thăng trầm mười lăm thế kỷ đâu phải là ngắn. Ô Diên đi qua tháng năm đằng đẵng với bao bãi bể nương dâu của thời cuộc cùng những vật đổi sao dời, quân thành vàng son ngày nào cùng những tòa ngang dãy dọc của người xưa khó có thể “trơ gan cùng tuế nguyệt”. Bất giác chúng tôi sực nhớ và đi tìm thành cũ trong nỗi niềm cảm hoài của bao đời thi nhân tiền bối.

“Ô Diên nền cũ dấu khôn tìm

Bia cổ mờ rêu có biếc nêm

Quang Phục hồn thiêng khe suối nghẹn

Cảo Nương mộ vắng tuyết hoa chìm

Được thua sự thể theo hoàn cảnh

Canh cử chòm thôn vẫn cổ kim

Hưng phế người làng đâu hiểu nhẽ

Ngoa truyền vua Triệu tiếng đàn đêm.”.

(Quá nhị Mỗ - Ngô Thì Nhậm)

Thế đấy, những dấu tích vật chất thì đã tàn phai và mất đi theo năm tháng nhưng ký ức của người đương thời về thủa xưa thì vẫn còn ẩn hiện đâu đó trong dân gian tựa như lớp trầm tích lắng đọng trong thời gian theo những lời truyền khẩu:

“Làng chúng tôi Đế vương đất cũ

Người chúng tôi Tể phụ ngày xưa”

“Đất này là đất cố đô

Người trung, trung tự thuở xưa đến giờ”.

Theo cái mạch chỉ dẫn ấy chúng tôi đi tìm thành cũ đâu đó còn lại trong ký ức của dân gian; trong niềm tự hào của muôn đời con cháu được gửi gắm trên những bức hoành phi, câu đối để ngợi ca tiền nhân còn treo trong những đình, đền, cổ tự; trong sự ngưỡng vọng, tôn thờ của người đời và con dân của Hạ Mỗ.

Bắt đầu là đình Vạn Xuân. Đình nằm ở giữa làng, mặt nhìn về hướng Tây, đối xứng Văn Hiến đường và Tri Chỉ đường. Đình thờ Lý Bát Lang và phối thờ Hậu Nam Đế - Lý Phật Tử và Biệt súy Lý Phổ Đỉnh - đây là các nhân vật nổi tiếng thời Tiền Lý (thế kỷ thứ VI). Đình được xây dựng trên khu đất cao, rộng và có hình thế “quy vờn ngọc”. Đình Vạn Xuân có những nét kiến trúc độc đáo, khác biệt với nhiều ngôi đình nổi tiếng trong vùng. Đình không làm theo kiểu hình chữ nhất, chữ nhị, chữ công, chữ môn mà thiết kế theo kiến trúc kiểu nội công ngoại quốc với các nóc nhà được liên kết chặt chẽ với nhau ở phía trên; hệ thống cửa bức bàn kéo dài, bao quanh mặt trước và cùng tiền sảnh nhà đại đình ở phía dưới tạo thành một hệ thống liên hoàn tựa như một dinh thự, một hành cung của vua chúa thời xưa, nhìn rất cổ kính, sang trọng, trang nghiêm. Trong đình hiện có treo đôi câu đối cổ phản ánh một dấu tích một thời của thành xưa: “Nam Đế Lý triều quốc hiệu Vạn Xuân, diên đình lưu tích thánh/Ô Diên cảnh thắng đô thành nhất thế, quán tự hiển thần linh” (dịch nghĩa: Triều Lý Nam Đế, tên nước là Vạn Xuân, ngôi đình lớn ghi lại tích của đức thánh/ Thắng cảnh đất Ô Diên một thời là Kinh đô, tất cả sự thờ tự rạng rỡ về sự linh thiêng của Thần linh).

Qua đình chúng tôi sang chùa Giác Hải. Đây là ngôi chùa rất cổ, toạ lạc trên một khu đất rộng, bằng phẳng ở phía rìa làng. Theo truyền thuyết, chùa Hải Giác được xây dựng từ thế kỷ thứ VI, cùng thời với kinh đô Ô Diên của nhà nước Vạn Xuân ở Hạ Mỗ. Chùa được kiến trúc theo trục chính là Đông Nam - Tây Bắc. Bên ngoài chùa có hai Tam quan. Tam quan ngoại làm giả theo kiểu hai tầng tám mái. Cổng chùa mở ra phía đường làng. Từ cổng đi vào có con đường dẫn tới một giếng cổ rất to. Giữa giếng có dựng lầu Quan Âm. Bên trái đường là Tam quan nội. Tam quan này xây theo kiểu nghi môn với bốn trụ biểu. Trên thân trụ có các câu đối bằng chữ Hán. Kiến trúc chùa từ Tam quan đi sâu vào bên trong cũng làm theo kiểu nội công ngoại quốc. Phía sân trước có ba bia đá dựng dưới gốc cây bồ đề. Tiếp đến là toà Phương đình hai tầng tám mái, tầng trên treo bộ chuông, khánh cổ đúc từ thời Gia Long (1802- 1820). Đối diện với Phương đình là nhà Tổ và nhà Mẫu. Hai nhà này có quy mô, kiến trúc giống nhau. Nhà Tổ nằm bên trái, rộng năm gian, xây kiểu tường hồi bít đốc, gian giữa đặt mười tượng sư tổ. Nhà Mẫu nằm ở bên phải, gian giữa có bày bộ tượng Tam phủ (Mẫu Thiên, Mẫu Thủy, Mẫu Nhạc), hai bên là động Sơn Trang và bàn thờ Đức thánh Trần. Sau nhà Mẫu và vườn Tháp. Cách Phương đình một cái sân gạch rộng là tòa Tiền đường. Tiền đường gồm năm gian hai dĩ, gian giữa nối với toà Thượng điện khá sâu. Hai gian giáp đầu hồi có cửa “thoát tục” dẫn vào hành lang tả và hành lang hữu với dãy tượng gồm mười tám vị La Hán. Hai góc cuối của dãy hành lang nối với toà Hậu đường rộng bảy gian. Trong Hậu đường có Mật Động. Chùa Hải Giác hiện còn lưu giữ rất nhiều tượng quý, trong đó có năm mươi tượng tròn mang phong cách cuối thời nhà Lê đầu thời nhà Nguyễn. Bên trái Tiền đường có tượng Đức Ông và hai thị giả (Già Lam và Chân Tể); bên phải là Thánh Tăng và hai thị giả là Diệu Nhiên và Đại Sĩ. Góc tường hồi bài trí giống nhau mỗi bên có bốn vị Kim Cương và hai vị Bồ tát. Phía đầu nhà Thiêu hương có Hộ pháp Khuyến Thiện và Hộ pháp Trừng Ác. Dọc theo hai bên là Thập điện Diêm Vương, ở hai góc cuối có Quan Âm Tống tử và Quan Âm Chuẩn đề. Hiện trong chùa cũng còn lưu giữ được đôi câu đối có nội dung ca ngợi thành Ô Diên: “Giáo liệt tam tông Hồng Lạc tảo khai kim thế giới/ Cảnh tiên thập vịnh Ô Diên biệt chiếm ngọc càn khôn” (dịch nghĩa: Ba giáo phái cùng truyền đạo lý, con cháu Lạc Hồng sớm mở hoàn cầu quý như vàng bạc/ Mười bài thơ ca ngợi cảnh về trước, kinh thành Ô Diên giữ riêng trời đất đẹp tựa ngọc ngà).

den-van-hien.jpg
Đền Văn Hiến

Kết thúc hành trình vãng cảnh vùng đất đế đô chúng tôi thăm đền Văn Hiến và viếng “Tô Vương lăng Thái sư mộ”. Đền Văn Hiến nằm ở đầu làng, nhìn về hướng Đông, nằm trên khu đất khá cao bên hữu ngạn sông Nhuệ xưa. Cảnh quan đền xanh rợp bóng cây, mát mẻ và thoáng đãng. Khởi đầu đền Văn Hiến là văn chỉ thờ Khổng Tử để biểu dương các vị khoa bảng trong làng. Nhưng sau khi Tô Hiến Thành qua đời, nhân dân Hạ Mỗ đã chôn cất, xây mộ và thờ ông tại đây. Qua nhiều lần sửa chữa, tôn tạo, đền Văn Hiến hiện nay được mở rộng rất nhiều nhưng cơ bản vẫn giữ được những kiến trúc cũ và các giá trị truyền thống như bộ bia Khoa Tràng ghi tên các vị đỗ đạt trong các khoa thi; các bản khắc gỗ in bộ thơ văn “Cổ Kim Truyền lục” do các nhà nho trong làng sáng tác và xuất bản hồi đầu thế kỷ XX cùng nhiều đồ cúng tế, trang trí khác như thần phả, câu đối, hoành phi, long ngai, hương án, đồ tế khí, bia đá, đồ sứ, đồ đồng, tượng gỗ… Tất cả những hiện vật này được xem là những tư liệu văn hóa vô cùng quý giá của Hạ Mỗ.

Đền Văn Hiến ngoài thờ Tô Hiến Thành thì còn thờ Đỗ Trí Trung (đỗ Tiến sĩ năm 1475). Nhìn từ ngoài đường vào ta thấy trên cổng đền có đắp bốn chữ Hán và đôi câu đối. Bốn chữ Hán là “Thánh vực hiền quan” (cõi thánh người hiền). Hai câu đối nội dung cũng lưu ký ức về một thời thành cũ: “Nhuệ thủy giang biên, Văn Hiến thiện đường kim thánh vực/ Ô Diên thành ngoại, Kim Sơn linh tích cổ hiền quan” (dịch nghĩa: Bên bờ sông Nhuệ, Văn Hiến thiện đường nay là cõi thánh/ Ngoài thành Ô Diên, Kim sơn linh tích xưa thuộc cửa hiền. Trong sân đền có tượng danh nhân Tô Hiến Thành. Văn Hiến đường gồm có các nhà: Tiền tế, Bái đường, Hậu cung. Trong Hậu cung có chân dung Khổng Tử và Tam thánh (Văn Xương Đế quân – thần chủ văn chương, Quan Thánh Đế quân (Quan Công), Phu Hựu Đế quân (Lã Đồng Tân, một trong Bát tiên quá hải). Tượng Tô Hiến Thành và Đỗ Trí Trung cùng bài vị Thành hoàng làng. Đặc biệt trong khuôn viên đền còn giữ được lăng mộ của Tô Hiến Thành cùng văn bia bằng đá.

Thái sư Tô Hiến Thành không chỉ là niềm tự hào của làng Hạ Mỗ mà còn của cả đất nước. Đương thời ông là nhà chính trị nổi tiếng. Thời vua Lý Anh Tông ông là tướng chỉ huy dẹp loạn Thân Lợi ở Lạng Sơn. Do có công lao lớn với nhà Lý nên năm 1159 ông được phong chức Thái Úy, ít lâu sau lại được phong Vương. Cùng năm đó giặc Ngưu Hống và Ai Lao xâm chiếm nước ta, ông lại được cử đi ngăn chặn và thắng trận. Năm 1161, ông lại được giao cầm hai vạn quân đi kiểm tra miền Tây Nam và vùng ven biển, trấn áp giặc cướp, giữ yên cương vực. Trong giai đoạn này, ông đã tổ chức cho quân dân khai hoang lấn biển và lập lên nhiều làng mới ven biển thuộc các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa ... Năm 1167, giặc Chiêm lại tấn công nước ta, vua Lý Anh Tông tiếp tục cử ông Nam chinh. Tô Hiến Thành lại một lần nữa ra trận và chiến thắng làm vị thế của quốc gia Đại Việt đương thời trở nên hùng mạnh khiến các nước lân bang phục nể, nhà Tống phải dè chừng. Năm 1175 Khi Lý Anh Tông ốm nặng, trước khi mất, vua có ủy thác cho ông giúp đỡ Thái tử Long Trát. Khi đó Thái tử mới hai tuổi. Bà hoàng hậu Chiêu Linh muốn đưa con mình lên thay đã đem vàng bạc dụ dỗ ông nhưng ông khẳng khái từ chối và nói: “Làm việc bất nghĩa mà được giàu sang; người trung thần nghĩa sĩ lẽ nào lại làm? Huống chi lời nói của vua trước còn văng vẳng bên tai. Tôi không dám vâng lời”. Năm 1179, ông ốm nặng, Tham tri chính sự Vũ Tán Đường ngày đêm hầu hạ chu đáo. Bà Thái hậu họ Đỗ đến thăm nhân tiện hỏi về người thay thế. Ông đáp “Trần Trung Tá có thể làm được”. Thái hậu nói “Tán Đường ngày nào cũng hầu hạ thuốc thang sao ông không nói đến”. Ông đáp “Vì Thái hậu hỏi người thay tôi nên tôi mới cử Trần Trung Tá, nếu hỏi người săn sóc, nuôi dưỡng tôi thì không phải Tán Đường thì còn ai khác nữa!”. Đánh giá về ông, đời sau Phan Huy Chú có viết: “Ông làm quan đầu triều, nhận trọng trách hết lòng hết sức; khéo sử trong khi biến cố, dù sóng đánh đập, lay chuyển mà cột đá vẫn trơ trơ không đổi, cuối cùng khiến cho trên yên, dưới thuận, thực không hổ thẹn với phong độ của bậc đại thần thời xưa”.

Chân bước đi trên đất người xưa, “Cỏ xanh mây biếc loi thoi đầy thành” cũng chẳng còn. Bất chợt trong lòng trào dâng một nỗi niềm hoài cổ và lại nhớ đến câu thơ của Trương Hán Siêu khi dạo chơi trên sông Bạch Đằng thửa xửa:

“Đứng lặng giờ lâu.

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá”

Nghe nói, cách đây vài năm Hà Nội đã công nhận xã Hạ Mỗ là một điểm du lịch. Hy vọng trong tương lai “thành cũ” “người xưa” ở Hạ Mỗ sẽ được nhiều người biết đến và tìm về ngưỡng vọng… Và có cả một ước mơ: “Ô Diên” sẽ được nghiên cứu và phục dựng để cho một thời vàng son không chỉ còn lại trong ký ức./.

Tác phẩm tham dự cuộc thi viết "Hà Nội và tôi" của tác giả Phan Anh. Thông tin về cuộc thi xem tại đây.
Bài liên quan
  • Hà Nội đâu phải để "tạm thương"
    Có những người chỉ thương nhau trong một thời ngắn ngủi nhưng vấn vương là thứ cả đời mang theo. Có con đường ngắn ngủi giữa lòng Thủ đô mang tên ngõ Tạm Thương mà lòng người một lần ghé qua đã biết không chỉ là thương tạm.
(0) Bình luận
  • Có một Hà Nội đẹp riêng đến lạ
    Một ấn tượng khó quên trong tôi khi đến Hà Nội là trải nghiệm đi xe buýt Hà Nội. Có người đùa vui rằng “Hà Nội không vội được đâu” và khuyên tôi muốn đi nhanh, đi vội thì bắt taxi hay Grabbike. Nhưng tôi muốn “không vội” để khám phá xe buýt ở Hà Nội như thế nào, có khác gì với xe buýt ở quê tôi không.
  • Khi viết về Hà Nội…
    Khi viết về Hà Nội, người ta không viết, người ta cảm nhận. Khi viết về Hà Nội, chữ Hà Nội nghe thật thân thương và trìu mến, như bầu không khí quanh ta, như cơn mưa thất thường mùa hạ, như mẹ, như cha và như tất cả.
  • Thưởng thức thứ quà đặc biệt của Hà Nội
    Người ta thường nói, Hà Nội đẹp nhất vào mùa thu, khi những cây hoa sữa mới bắt đầu trổ bông, tỏa hương thơm ngào ngạt, khi cái lạnh chỉ mới chớm, chạm nhẹ vào vạn vật xung quanh. Còn mùa đông Hà Nội thật đặc sắc. Từng con phố trải dài với hai hàng cây bên đường trơ trụi lá, thân gầy guộc, nghiêng nghiêng hứng gió đông. Những cơn gió lạnh rít qua khe cửa, tay lạnh cóng run run. Lúc đó dừng chân xuống vỉa hè với bát chè xanh nóng hổi và thơm ngất, nhấp từng ngụm cảm nhận hơi ấm đang tràn về, hay mùi thơm của bát phở nóng bốc lên cho ta cảm nhận hương vị đặc sắc của món ăn Hà Nội. Một trong những món ăn làm nên nét tinh túy của ẩm thực Hà Nội đó là phở.
  • Hương đêm Hà Nội
    Đó là một buổi chiều tháng Mười đầy ấn tượng, theo yêu cầu của Thương - người bạn thân của tôi, đang sống xa quê, tôi quay tặng cô ấy, một đoạn video ghi hình ảnh cây hoa sữa cổ thụ “của riêng bạn” đang bời bời trổ bông và lịm ngọt hương say.
  • Hà Nội dấu ấn trong lòng tôi
    Với một người lần đầu đặt chân đến Hà Nội, Thủ đô Hà Nội là những khu phố cổ kính, trầm mặc rêu phong, là những con đường nhỏ nhỏ xuôi ngược dòng người, những ánh đèn lung linh về đêm… Tôi vội vàng hòa vào dòng người để khám phá vẻ đẹp của thành phố được mệnh danh là “Thủ đô ngàn năm văn hiến”, “trái tim của cả nước”.
  • Nương theo hương lụa
    Nếu ai từng đặt chân đến làng Vạn Phúc (quận Hà Đông, Hà Nội) hẳn sẽ được đắm mình trong những thớ vải, vóc lụa đẹp đến nao lòng. Chẳng thế mà lụa nơi đây từng được người Pháp ca ngợi là “Đệ nhất tinh xảo của Đông Dương”, là thứ sản vật tiến Vua quý giá. Xuân về, trong cảnh sắc giao hòa của đất, của người tôi như thấy được những sắc lụa bừng sáng, hương lụa nghìn năm như ngọn gió lành ngan ngát bay xa.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
  • Ghi danh Cửu Đỉnh - Hoàng Cung Huế là di sản tư liệu thế giới
    “Những bản đúc nổi trên chín đỉnh đồng ở Hoàng Cung Huế” đã được Ủy ban Chương trình Ký ức Thế giới Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO ghi danh là di sản tư liệu thế giới.
  • Hà Nội: Lễ hội tôn vinh mối tình cao đẹp của Chử Đồng Tử - Tiên Dung
    Lãnh đạo UBND xã Hồng Vân (huyện Thường Tín, TP. Hà Nội) vừa chia sẻ, công tác chuẩn bị tổ chức Lễ hội tình yêu 2024 tại xã Hồng Vân đã hoàn tất. Tối 8/5, tại Quảng trường Thống Nhất (phố đi bộ đêm) xã Hồng Vân, Lễ hội tình yêu 2024 sẽ khai màn.
  • Nhớ chuyến chụp ảnh ở Điện Biên năm ấy
    Thấm thoắt Chiến thắng Điện Biên “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đã qua 70 năm. Ngày ấy tôi còn nhỏ, chưa đủ tuổi tham gia chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Hằng ngày, tôi chỉ thấy người lớn mua và đọc báo Tia sáng đưa tin về các máy bay của hãng “Đa-cô-ta”, máy bay “Bê-vanh-xít” (B.26) tại các sân bay Bạch Mai, Gia Lâm (Hà Nội) và phi trường Cát Bi (Hải Phòng - tên gọi sân bay Cát Bi ngày ấy), máy bay liên tục cất và hạ cánh chở lính nhảy dù, xe tăng, trọng pháo đổ xuống Mường Thanh - Điện Biên Phủ
  • Những kỷ vật biểu tượng của chiến dịch Điện Biên Phủ
    Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” là dấu son chói lọi trong lịch sử kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Giờ đây, chiến tranh đã lùi xa, nhưng giá trị và thông điệp từ những kỷ vật kháng chiến của những năm tháng không thể nào quên sẽ còn mãi. Nó gợi nhớ một thời đạn bom, hy sinh thầm lặng, những cống hiến, đóng góp lớn lao của các thế hệ cha anh vì độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc.
  • Triển lãm giao lưu mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh - Huế - Hà Nội
    Mục tiêu của cuộc triển lãm nhằm thắt chặt tình cảm của hội viên  Hội Mỹ thuật 3 miền, thúc đẩy mối quan hệ học tập sáng tạo nghệ thuật trong lĩnh vực mỹ thuật của 3 thành phố lớn.
  • Xúc động lá thư gửi từ Điện Biên của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng gửi bạn thơ 66 năm trước
    Trong cuốn sách “Bốn năm sau và những trang viết về Điện Biên” của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng (nhà văn Nguyễn Huy Thắng biên soạn và chú dẫn), vừa được NXB Trẻ tái bản và phát hành, độc giả không khỏi xúc động với lá thư của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng viết từ Điện Biên năm 1958 gửi nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh.
  • "Những ngày Văn học châu Âu" tại Việt Nam: Giới thiệu những tác phẩm về đa dạng giới tính
    “Những ngày văn học châu Âu” sẽ diễn ra từ nay đến 19/5 tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, giới thiệu những tác phẩm về đa dạng giới tính.
  • Liên hoan Kịch nói toàn quốc năm 2024
    Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định 1196/QĐ-BVHTTDL về việc tổ chức “Liên hoan Kịch nói toàn quốc - 2024”.
  • Giám sát biểu diễn nghệ thuật Ca Huế, sản phẩm du lịch độc đáo trên sông Hương
    Để phát huy hơn nữa hoạt động quản lý, tổ chức và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch độc đáo trên sông Hương phục vụ du khách, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế vừa ra Quyết định số 21/2024/QĐ-UBND về việc Quản lý và tổ chức hoạt động biểu diễn Ca Huế.
  • Huyện Phú Xuyên (Hà Nội): Tổ chức triển lãm Chiến thắng Điện Biên Phủ và tri ân các chiến sĩ
    Kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2024) và hướng tới Kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng huyện Phú Xuyên (30/7/1954 – 30/7/2024), Trung tâm Văn hóa – Thông tin và Thể thao huyện Phú Xuyên (TP. Hà Nội), Hội Cựu chiến binh và Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đầy tổ chức triển lãm ảnh kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ.
Ô Diên, thành cũ người xưa
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO