Đêm giao thừa ấy ở Hà Nội
Đêm ba mươi Tết Nhâm Dần 1962 tối đen sâu thẳm, trời Hà Nội mưa bụi bay bay, gió bắc lạnh cắt da cắt thịt từng cơn ào tới lùa vào các vòm cây, bứt đi các lá úa vàng phủ lên mặt đường quanh Hồ Gươm. Rét căm căm buốt lạnh. Măt Hồ Gươm phẳng lặng, bình yên.
Trong mưa xuân ngọt ngào, ánh điện quanh hồ nhòe đi, lung linh trong màn đêm. Khắp các nẻo đường người người náo nức đổ về hồ gươm đợi ngắm pháo hoa vào thời khắc chuyển giao năm cũ và năm mới, thời kỳ “Chào 61! Đỉnh cao muôn trượng” (Tố Hữu).
Tuổi thơ tôi đã chứng kiến câu chuyện trong đêm giao thừa năm ấy ở xóm nghèo giữa lòng Thủ đô Hà Nội. Tôi không thể quên được kể cả những lúc được thỏa thê chơi đùa cùng lũ bạn. Câu chuyện xoắn quyện theo tôi suốt những năm tháng tuổi thơ, đến tận bây giờ khi tôi đã ở tuổi xưa nay hiếm.
Hồi ấy nghèo thì nghèo, đội thiếu niên tiền phong của xóm cũng được trang bị cho một dàn trống ếch. Nhiều tối tôi đeo chiếc trống cái to đùng trước bụng, vung dùi làm một tiếng tùng ra lệnh. Đám bạn vung dùi hòa theo. Tà rùng… Tà rà rùng… Tà rà rùng rùng rùng rùng… Cứ thế theo nhịp trống, lũ chúng tôi bước đều diễu quanh xóm nghèo... Tiếng trống cuốn lấy chúng tôi những đứa trẻ hồn nhiên vô lo, vô nghĩ. Tiếng trống rộn ràng hút cả người lớn vào cuộc diễu hành. Tiếng trống tươi vui khiến người lớn trong xóm ngèo quên đi bao nhọc nhằn vất, quên đi nỗi tất bật lo công lo việc, lo cuộc mưu sinh của những ngày tháng qua.
Đủ các trò chơi cuốn lấy chúng tôi. Nào là nu na nu nống. Nào là ú tim, trốn tìm. Cả đám gái trai ngồi quây vòng tròn chơi thả khăn và hát vang khúc đồng dao “Thả đỉa ba ba/ Chớ bắt đàn bà/ Phải tội đàn ông/ Cơm trắng như bông/ Gạo tiền như nước….”. Mọi mệt nhọc trong xóm tiêu tan cùng khúc đồng dao của bọn tôi.
Rồi còn nhiều trò chơi khác nữa. Với niềm hân hoan, háo hức, cười nói râm ran của tuổi thơ, chúng tôi thỏa thê hò hét, thỏa thê chạy nhảy. Đứa nào đứa nấy mồ hôi ướt bết tóc, chân tay lấm lem đất cát mà vẫn say sưa quên cả thời gian đã về khuya. Chúng tôi làm cho cái xóm nghèo vốn mộc mạc, yên tĩnh bỗng trở nên rộn rã, sôi động hơn bao giờ hết.
Chúng tôi mê mải chơi đùa, nói cười. Tiếng cười hồn nhiên, trong vắt Tiếng cười vô nghĩ, vô lo lanh lảnh âm vang trong tiềm thức tôi. Nhưng có một chuyện mà các trò chơi trên không hề sánh nổi. Chuyện đó làm tôi nhớ mãi. Tâm hồn tôi choáng ngợp, xúc cảm rưng rưng nhớ lại câu chuyện trong ngõ nhỏ ở xóm nghèo giữa lòng Thủ đô mà tuổi thơ tôi đã chứng kiến.
Dẫu cuộc sống xô bồ, tất bật lo toan hiện tại cũng không làm tôi quên được câu chuyên cảm động, đã làm xóm nghèo tôi rất đỗi tự hào.
Hồi đó tôi chừng tám tuổi. Cái tuổi hồn nhiên vô lo, vô nghĩ của tôi trôi đi trong xóm nghèo xơ nghèo xác. Trong xóm có gia đình cô Tín hoàn cảnh khó khăn nhất. Nhà cửa tuềnh toàng như quán chợ.
Chồng mất. Cô phải đi làm thuê để nuôi các con. Vào đêm ba mươi tết cô vẫn phải đi gánh nước thuê để lấy tiền mua gạo, mua bánh chưng ăn Tết.
Đêm Ba mươi Tết ấy, tôi tuy còn bé nhưng nhớ mãi. Ở đâu đó có tiếng pháo đì đẹt của đám trẻ háo hức trước thời khắc giao thừa thì xóm tôi chìm trong đêm tháng củ mật. Lối ngõ lờ mờ trong mưa bay dưới ánh điện vàng vọt, nhà nào nhà nấy cửa đóng im ỉm như không muốn cho Xuân vào nhà.
Nhưng rồi khung cảnh buồn tẻ ấy của xóm tôi bay theo cùng gió bấc giá lạnh khi bên nhà cô Tín vang lên tiếng reo vui của lũ trẻ. “Bác Hồ... Cụ Hồ… đến nhà mình mẹ ơi”. Người lớn còn ngơ ngác nửa tin nửa ngờ. Lũ trẻ con chúng tôi vô tư sướng lây. Không cần biết nếp tẻ ra sao, chúng tôi nhảy cẫng lên tông cửa chạy sang nhà cô Tín tức thì.
Thời khắc ấy tôi nhớ mãi. Tôi là thằng nhỏ con nhanh chân nhất nên đến nhà cô Tín đầu tiên. Kìa ngồi trên chõng tre là Ông Cụ râu tóc bạc phơ như cước. Cu Đức bạn tôi ngồi trên đùi Ông Tiên ấy .
Tôi sững lại, dụi mắt. Tôi không nhầm. Cu Đức bạn tôi sướng thật. Ông Tiên tươi cười vẫy tôi lại. Tôi ào đến và reo lên Bác Hồ… Bác Hồ…
Lũ bạn trong xóm ùa vào… Người lớn cũng đã kéo đến quây quần trước sân, ai nấy đều xúc động vì được Bác đến thăm xóm nghèo.
Bác an ủi, động viên mọi người đoàn kết, thương yêu nhau vượt qua khó khăn. Một không khí ấm cúng, náo nhiệt chưa từng có ở xóm tôi. Đêm Ba mươi Tết năm nay có xóm nào được vinh hạnh như xóm nghèo tôi không?
Bác Hồ ngồi đó giữa chúng tôi tỏa ánh hào quang rực rỡ phá tan màn đen của đêm đông cuối tháng củ mật mưa phùn lạnh giá.
Ở cái xóm nghèo này, lứa tuổi ông bà chúng tôi mù chữ hoàn toàn; lứa tuổi bố mẹ chúng tôi chỉ có đôi người võ vẽ biết đọc, biết viết như bố tôi. Sau giải phóng Thủ đô ngày 10 tháng 10 năm 1954 mới có lớp học bổ túc. Từ đó xóa đi nạn mù chữ của phong kiến cho ông bà, cha mẹ chúng tôi.
Đến lứa tuổi bọn tôi nhờ có Cụ Hồ đứa nào cũng được đi học. Ông nội rưng rưng nước mắt bảo “Đời ông, đời bố mẹ các cháu mù chữ khổ lắm rồi. Giờ các cháu gắng học lấy cái chữ của Cụ Hồ để nên người”.
Tôi nghe lời ông nội, học chữ Bác Hồ. Được đi công tác nay về hưu cứ băn khoăn một câu hỏi: Là Chủ tịch nước, sứ mệnh của cả dân tộc đang đặt trên đôi vai Bác. Biết bao công việc bộn bề, sao Bác dành được thời gian để đến thăm những gia đình nghèo khổ ở xóm tôi đêm giao thừa này?
Nay tôi nhận ra việc làm này chỉ có ở Bác Hồ. Đó là tình thương yêu con người, là sự chăm lo ân cần của Bác đối với Nhân dân, đặc biệt là những người nghèo khổ, có hoàn cảnh bất hạnh. Điều này đã xóa đi khoảng cách giữa một lãnh tụ, Chủ tịch nước với người dân lao động bình thường.
Về chuyến vi hành của Bác đêm cuối năm gợi lên trong tôi niềm xúc động mãnh liệt trước nhân cách của một bậc vĩ nhân nhưng cũng rất đỗi bình dị. Đây là một việc làm đời thường chứa đựng một triết lý sống, một nhân cách vĩ đại, một tâm hồn cao cả, một tình thương yêu bao la vô tận đối với người dân của Bác Hồ.
Vào đêm giao thừa năm ấy được gặp Bác Hồ, cô Tín cảm động nói trong nước mắt. Nước mắt của niềm vui và hạnh phúc “Những người như cháu một nhà nghèo nhất xóm không ngờ được Bác đến thăm”.
Bác hiền từ ân cần nói: “Bác không tới thăm những người như mẹ con thím thì còn thăm ai?” Lời nói thân thương ấy tôi khắc trong tâm không bao giờ quên. Không bao giờ phai nhạt.
Bác Hồ thực sự gần gũi, chân thực, mộc mạc và bình dị. Bản thân tôi và các bạn cùng trang lứa và mọi người ai cũng hiểu tình yêu thương con người của Bác mênh mông như biển cả, sâu thẳm như đại dương. Nhà thơ Tố Hữu đã viết:
“Bác ơi! Tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người”.
Lòng yêu thương con người của Bác vừa bao la rộng lớn, vừa gần gũi thân thương gắn bó với từng số phận, với con người cụ thể.
Ai cũng biết sinh thời, Bác Hồ kính yêu từng nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho Nhân dân ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Mỗi lần Tết đến, Xuân về, Bác lại nghĩ đến dân, lo sao cho dân có một mùa xuân ấm no, hạnh phúc.
Bác cũng từng nói: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Những ngày thành lập Chính phủ - chính thể Dân chủ cộng hòa, Bác nói: “Chúng ta phải làm ngay: làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là bốn điều đó.”.
Câu chuyện Bác Hồ đến thăm gia đình cô Tín người nghèo nhất trong xóm nghèo đêm Giao thừa năm Nhâm Dần (1962) là một bài ca đẹp về tình yêu bao la của Bác Hồ. Là một minh chứng tiêu biểu cho tình yêu thương vô bờ bến của Bác với người dân lao động.
Đức độ của Bác theo năm tháng càng khắc ghi sâu đậm và lung linh tỏa sáng không bao giờ phai nhạt trong tâm hồn mỗi người Việt chúng ta.
Riêng tôi, con cháu tôi không bao giờ quên được hình ảnh Bác Hồ và cảm xúc của mình trong khoảnh khắc đêm giao thừa Nhâm Dần 1962 trong xóm nghèo của Thủ đô ta./.
Tác phẩm tham dự cuộc thi viết "Hà Nội và tôi" của tác giả Phùng Khánh. Thông tin về cuộc thi xem tại đây. | |