Văn hóa – Di sản

Chùa Hưng Ký và câu chuyện về người thợ gốm tài hoa

Phan Ngọc Khuê 12:24 18/03/2023

Chùa Hưng Ký nằm trong ngõ Chùa Hưng Ký, số 422, phố Minh Khai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Đây là một ngôi chùa mới được xây dựng khoảng năm 1931 - 1932.

Theo văn bia được lập vào rằm tháng Chạp năm Nhâm Thân, Bảo Đại thứ 7, tức năm 1932, chùa Hưng Ký có tên là chùa Vũ Hưng và điện Mai Sau. Chủ nhân của chùa có tên là Trần Văn Thành tức Hưng Ký, một chủ lò gạch ở Cầu Đuống, quê ở Quảng Đông (Trung Quốc) có vợ là bà Vũ Thị Sau, người làng Hoàng Mai, xã Hoàng Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Vũ là họ vợ, Hưng là tên chồng và điện Mai Sau (Mai là tên làng, Sau là tên vợ) được đặt theo cách ghép họ tên của hai vợ chồng chủ nhân.

anh-2-.jpg
Tam quan chùa Hưng Ký.

Trần Hưng Ký và vợ thuê Đào Văn Can - một người thợ gốm tài hoa thiết kế kiến trúc và giữ vai trò là tổng công trình sư của ngôi chùa này.
Đào Văn Can (1894 -1976) người làng Triều Đông, xã Tân Minh, huyện Thường Tín, Hà Nội. Trước khi sinh Đào Văn Can, bố mẹ ông đã phải rời quê hương vì nghèo đói, không ruộng đất, tới làm thuê cho một lò nung bát ở Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.

Ngay từ thuở nhỏ, Đào Văn Can đã quấn quýt với các nghệ nhân của xưởng gốm, lò nung ở Bát Tràng. Cậu bé thường dùng than đen, gạch non để vẽ hình con giống, dùng đất sét để nặn con giống rồi đặt chúng trong những kẽ hở của lò nung. Những đồ chơi bằng gốm đầu tiên của Đào Văn Can được các thợ gốm ở Bát Tràng tán thưởng.

Sau này lớn lên, làm việc ở Bát Tràng (từ năm 1908 - 1917), đã cho ông hiểu sâu sắc hơn về ngành gốm: men, mộc, kỹ thuật lò nung, nét vẽ phóng bút, hình đắp tỉ mỉ, công phu. Đặc biệt, qua những pho tượng, trang trí đình chùa ở đây đã giúp ông có thêm những kiến thức về nghệ thuật cổ truyền mà cụ thể là cách tạo dáng, tạo hình cho tượng người, vật, hoa, lá...

anh-1.jpg
Nét đặc sắc nhất trong kiến trúc của chùa Hưng Ký là những mảng trang trí bằng gốm sứ rất tinh xảo.

Từ năm 1917 - 1931 ông được làm việc ở Công ty gốm Thanh Trì tại Hà Nội, lúc ấy còn gọi là lò gốm ông Thiếu Hà Đông (lò gốm của gia đình Thiếu Bảo Hoàng Trọng Phu) với các công việc: Hướng dẫn vẽ và các công đoạn nghề gốm cho thợ mới; Sáng tác mẫu, dáng đồ vật, họa tiết để trang trí các mặt hàng gốm. Và quan trọng hơn cả là sáng tác tượng và tranh phù điêu gốm, sử dụng men tây vào sản phẩm. Loại men này mua từ Pháp về, giá rẻ, thành phẩm hạ, men dày, không lộ xương gốm. Hàng không đẹp nhưng dùng trong công nghiệp thì có nhiều lời lãi (Đến nay loại hàng này đã rất phổ biến trên thị trường).

anh-3.jpg
Dưới nóc mái có nhiều ô trang trí tái hiện các cảnh trong “Tây Du Ký” - tiểu thuyết Phật giáo nổi tiếng Trung Hoa.

Vốn liếng nghề nghiệp và khả năng sáng tạo trong khoảng thời gian này đã giúp cho ông có nhiều thành tựu trong công việc Tổng công trình sư tại chùa Hưng Ký.

Đây là một ngôi chùa đặc biệt, không hề có cột kèo và hệ thống mái bằng gỗ. Toàn bộ ngôi chùa làm bằng bê tông, cốt thép. Chùa không có vẻ u tịch của một ngôi chùa ở làng quê Bắc bộ mà toàn bộ đượm vẻ khang trang, vui tươi của một hội quán (của người Hoa kiều).
Từ cổng tam quan tới chính điện thờ Phật, nhà Hậu, nhà Bia đều được trang trí tô điểm bằng tượng nổi, con giống, hoa văn, câu đối, tranh trang trí… tất cả đều làm bằng gốm men tây, màu sắc rực rỡ gắn vào các bộ phận của kiến trúc bê tông. Các đôn, chậu, chum, thống giá nến, bát hương cũng đều bằng gốm phủ men tây rực rỡ, bóng loáng.
Chùa Hưng Ký có tới hàng ngàn pho tượng lớn nhỏ làm bằng gốm, tô men tây sáng bóng, rực rỡ về các đề tài: Tây Du ký - Tam Tạng thỉnh kinh, Sự tích Thích Ca đi tu, Sự tích Quan Âm Thị Kính, Sự tích về công chúa Liễu Hạnh, Thập động Diêm Vương.

Có thế ví đây như là một rừng tượng bé, cao cỡ 20cm - 30cm trang trí kín 3 mặt của nhà bia, trong đó tiêu biểu là tượng vợ chồng Hưng Ký, đặt thờ ở nhà Hậu; tượng Phật đắp lớn (gồm 5 pho, mỗi pho cao từ 2m - 3m) ngồi chật một gian chùa ở chính điện). Tượng Hộ pháp, rồng, con sấu, cá, đầu đao, vòng, nguyệt… Tất cả vẫn còn trơ men màu sáng bóng, khoe vẻ đẹp của nghệ thuật tạc tượng và kỹ thuật nung tượng gốm lớn nhỏ của nghệ nhân Đào Văn Can ở thời kỳ này.

Tương truyền, khi ngôi chùa làm xong, Hưng Ký cho dựng bia kỷ niệm và khắc tên người thiết kế, thể hiện mỹ thuật cho ngôi chùa này. Tuy vậy không phải lúc nào người ta cũng đi tìm xem tên người thợ được khắc trên bia, nên ít người biết về người thợ tài hoa này.

Năm 1958, Đào Văn Can trở thành hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam. Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Khóa I (1966 - 1989), tiểu ban Mỹ thuật Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam và là tác giả của nhiều tác phẩm điêu khắc dự Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc. Đào Văn Can từng tham dự Triển lãm Mỹ thuật 12 nước XHCN ở Rumanie, năm 1958.

Bài liên quan
  • Giữ bản sắc, tạo nếp văn minh trong lễ hội Hà Nội
    Những năm qua, công tác quản lý và tổ chức lễ hội được Thành phố Hà Nội hết sức chú trọng. Với sự quan tâm của các cấp chính quyền, sự quản lý và hướng dẫn hoạt động của các cơ quan chuyên môn, những bất cập, hạn chế trong các lễ hội truyền thống đang dần được tháo gỡ từ đó góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa, tạo nếp văn minh cho các lễ hội ở Hà Nội…
(0) Bình luận
  • Nền tảng vững chắc để di sản văn hóa dân tộc trường tồn
    Hơn 4.000 năm lịch sử, Việt Nam có kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú và đa dạng. Để di sản văn hóa của dân tộc trường tồn, phát huy các giá trị trong đời sống đương đại, trong mọi thời kỳ và nhất là những năm gần đây, chúng ta đã có một hệ thống văn bản các chính sách, pháp luật về di sản văn hóa ngày càng hoàn thiện hơn.
  • Chảy mãi mạch nguồn gìn giữ, phát triển di sản văn hóa Việt Nam
    Suốt quá trình xây dựng, phát triển đất nước Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi trọng, quan tâm và xác định di sản văn hóa là bản sắc của văn hóa dân tộc, là cơ sở để xây dựng nền văn hóa mới, con người mới, là một nguồn lực để xây dựng và phát triển đất nước.
  • Giao lưu, trình diễn nghi lễ và trò chơi kéo co tại đền Trấn Vũ
    Trong khuôn khổ Festival Thăng Long - Hà Nội 2025, sáng 16/11, tại đền Trấn Vũ (phường Long Biên, thành phố Hà Nội) đã diễn ra chương trình giao lưu, trình diễn nghi lễ và trò chơi kéo co. Chương trình do Sở Văn hóa và Thể thao TP Hà Nội phối hợp với UBND phường Long Biên và Hội Di sản Văn hóa Việt Nam tổ chức, nhân dịp kỷ niệm 10 năm nghi lễ và trò chơi kéo co được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa.
  • Tri thức nấu cỗ Bát Tràng là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
    Tri thức nấu cỗ Bát Tràng gắn liền với lịch sử hơn 500 năm của làng gốm, là biểu hiện sống động của văn hóa lễ nghi và tinh thần cộng đồng. Mâm cỗ không chỉ là món ăn, mà là nghệ thuật tổ chức ẩm thực, phản ánh thẩm mỹ, triết lý âm - dương, ngũ hành trong đời sống người Việt.
  • Trưng bày “Dương Văn Học – Người kể chuyện bằng rối": Cơ hội khám phá nghệ thuật rối độc diễn
    Nằm trong chuỗi hoạt động hưởng ứng Festival Thăng Long - Hà Nội 2025, Trung tâm Điều phối các hoạt động sáng tạo Hà Nội (Bảo tàng Hà Nội) tổ chức trưng bày chuyên đề “Dương Văn Học - Người kể chuyện bằng rối”. Trưng bày như một lời tri ân với người nghệ sĩ đã dành trọn cuộc đời để thổi hồn cho những con rối, đưa loại hình sân khấu dân gian vươn tới chiều sâu triết lý và thi vị.
  • Hà Nội kỷ niệm 10 năm Nghi lễ và trò chơi kéo co được UNESCO ghi danh
    Trong khuôn khổ Festival Thăng Long - Hà Nội 2025 diễn ra từ ngày 1 đến 16/11, Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội phối hợp với phường Long Biên và Hội Di sản Văn hóa Việt Nam tổ chức sự kiện kỷ niệm 10 năm Nghi lễ và trò chơi kéo co được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
Chùa Hưng Ký và câu chuyện về người thợ gốm tài hoa
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO