Chùa Bối Khê (huyện Thanh Oai)
Chùa Bối Khê thuộc địa phận xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, Hà Nội.
Đại Bi tự là tên chữ của ngôi chùa ở thôn Bối Khê. Chùa vốn là của hai thôn Bối Khê và Hồng Khê. Xưa Bối Khê là một xã thuộc tổng Bối Khê, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam Thượng.
Đầu cầu có tấm đá to in vết chân của Thánh Bối được thờ trong chùa. Tam quan kiêm gác chuông làm theo kiểu hai tầng tám mái, văn bia cho biết được xây dựng từ năm Hoằng Định thứ 4 (1603) nhưng đến năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) đã làm lại. Cũng theo bia cổ, năm 1883 công chúa Thánh Chân đã cúng quả chuông to, về sau bị mất, nay treo chuông đúc năm Thiệu Trị thứ 4 (1844). Sau Tam quan là khoảng sân rộng rợp bóng hoàng lan, giữa sân kê chiếc sập đá để lư hương to, ngày hội nghi ngút khói hương càng làm tăng thêm vẻ diệu huyền. Cuối sân là khu Tam bảo mặt bằng “Nội công ngoại quốc”, lại thêm điện Thánh phía sau như một dấu chấm kết thúc.
Tổng thể kiến trúc ở đây gồm hai gian khu thờ “tiền Phật hậu Thánh”. Mở đầu là Tiền đường 7 gian dựng trên nền cao ba cấp, bốn mái xoè ra xung quanh với các hoa đạo vươn bay, bờ nóc đắp biển mang tên chùa ghi rõ dựng lại đời Khải Định (1916 - 1925), suốt dọc bờ nóc đắp rồng triện gãy khúc như dải đăng ten. Dãy cột hiên bằng đá tiết diện vuông vừa chạm cảnh tứ quý vừa khắc nhiều câu đối, đỉnh cột đỡ chiếc bẩy cong ngóc lên duyên dáng gắn với chiếc xà đùi được chạm tứ quý, cây hoá rồng và bát bửu rất tinh tế, trên xà là những bức cốn mê chạm cả hai mặt với nhiều đề tài như tứ linh và trích đoạn Tây du ký sinh động. Đầu hiện bên trái thờ bà chúa Mạc có công tu sửa chùa.
Phía sau Tiền đường nhô ra gian ống muống gọi là Thiêu hương nối với toà Thượng điện cổ kính phía sau. Thượng điện xây dựng trên nền đất cao chừng 1m, rộng 1 gian 2 chái hình khối gần vuông, các hoa đạo uốn cong, mái xoè xuống thấp mà vẫn nhẹ nhàng. Các bẩy hiên chạm đầu rồng mang phong cách nghệ thuật thời Trần, có bẩy gốc còn chạm chim thần, lần tu sửa cuối thế kỷ XX đã chạm lại như thế “làm mới cho đẹp”, vào bên trong cả hai bộ vì theo kiểu tiền thân của giá chiêng bên trong lồng ván chạm rồng phượng trong vòng sáng lá đề, trụ giá chiêng chạm thành phỗng quỳ ngộ nghĩnh, lại thêm dải hoa dây... đều là đặc trưng của nghệ thuật thời Trần. Các thành phần kiến trúc đều lực lưỡng, nhiều bộ phận làm bằng gỗ mít. Quanh Thượng điện được đắp ván đố lụa chỉ để che chắn, đây là hình thức kiến trúc gỗ thời Trần được xác định bằng phong cách nghệ thuật và văn bia cụ thể là năm 1338.
Từ hai đầu Tiền đường còn ăn thông với hai dãy hành lang chạy dọc hai bên chùa, mỗi dãy 7 gian, cấu trúc đơn giản, lòng hẹp mái thấp, bên trong đắp bộ tượng 18 vị La Hán bằng đất tạo hình sống động. Nối phía cuối của hai dãy hành lang là toà Hậu đường, ở đây gian giữa làm chức năng toà Tiền bái mở đầu vào điện Thánh, gắn với cung Thánh là một nhà vuông chồng diêm 2 tầng 8 mái phía sau, hệ thống đạo xum xuê như hoa sen. Cung Thánh ba phía bưng ván, đằng trước lấp cánh cửa bức bàn là không gian thiêng, trong có bài và tượng đức Thánh Bối. Ở phần cổ diêm có hệ thống con sơn như ngà voi tua tủa, giống như gác chuông chùa Keo (Thái Bình), ngoài ra còn một số bức chạm trang trí. Trước cửa cung có bức hoành phi “Tổ Phật am”, coi đức Thánh là Phật tổ tu luyện ở đây, kèm theo các dòng lạc khoản ghi rõ cung Thánh làm năm Giáp Tuất niên hiệu Chính Hoà thứ 15 (1694), được sửa năm Bính Tuất và Quý Mão niên hiệu Cảnh Hưng thứ 27 và thứ 44 (1766 và 1783).
Bên cạnh khu Tam bảo trên, còn có nhà Tổ và điện Mẫu ở bên trái ngược với chùa và nhìn vào sân trong chùa.
Chùa Bối Khê có nhiều hiện vật quý hiếm. Về bia đá chùa có 10 tấm. Tấm bia cổ nhất là “Bối động Thánh tích bi ký” từ năm Thái Hoà thứ 11 (1453), nhưng cũng là tấm bia mới nhất vì được khắc lại năm Thành Thái thứ 7 (1895), kể lại sự tích đức Thánh Bối với nhiều tình tiết ly kỳ. Tiếp theo, bia “Đại Bi tự” dựng năm Hồng Thuận thứ 7 (1515), ngoài việc nói thêm về đức Thánh Bối còn cho biết việc tu sửa ở đầu thế kỷ XVI. Hiện vật đá đặc biệt quý hiếm là bệ hoa sen khối hộp; văn tự khắc chìm ở bệ cho biết năm Xương Phù thứ 6 (1382), một số người cúng tiền và ruộng, riêng vị đạo sĩ người Quốc Oai cúng chiếc bệ này gọi là “Phật thạch bàn” tức là bàn đá thờ Phật, dài 1,53m, rộng 1,04m, cao 1,60m lại được đặt trên đế cao 0,14m nhưng dài rộng nhỉnh hơn bệ, các góc chạm chim thần, trên chạm đài sen, dưới chạm sập thờ, mặt trước ở giữa chia ra các ô chạm rồng và thú giống như loài dê, còn thêm một số kiểu hoa lá nữa.
Phật điện chùa Bối Khê đông đúc, được bố trí ở Thượng điện và Tiền đường như thường gặp ở nhiều chùa. Nổi trội lên là pho Quan Âm thiên thủ thiên nhãn với 7 đôi tay lớn để trần nõn nà, xếp cân xứng từng đôi một như múa, khuôn mặt nữ phúc hậu, mái tóc rủ xuống vai rồi chia ra 3 nhánh chảy xuống bắp tay. Tượng ngồi thiền, các nếp áo chảy như lá sen xuống lòng đùi che cả cổ chân. Hình khối và chi tiết trang trí thuộc phong cách nghệ thuật chuyển tiếp từ thế kỷ XVI sang thế kỷ XVII.
Trong số đồ thờ, ở đây có một chân đèn thời Mạc và hai chậu cây mệnh bằng gỗ, uốn thế phụ tử, nhiều cành nhưng không có lá.
Chùa Bối Khê, ngoài việc thờ Phật như mọi ngôi chùa, thờ đức Thánh Bối. Ngài họ Nguyễn, tên huý là Bình An, quê ở Bối Khê nhưng tu ở viện Tiên Lữ (chùa Trăm Gian). Khi nhỏ đi chăn trâu thường phóng sinh cho tôm cá, tiếng tăm ngài khi tu hành vang đến triều đình nhà Trần, được vua phong làm Chân Nhân. Khi ngài về quê có mây đen hiện ra như bầu trời vần vũ sắp mưa (nên tục gọi là Màn Đen). Ít lâu sau ngài dựng lại chùa Tiên Lữ, đi guốc trên các xà để trông nom, chỉ thổi cơm niêu cho cả trăm thợ, còn về quê Bối Khê xin cà để lại vết tích dấu chân một số nơi đi qua. Theo truyền thuyết, khi quân Minh xâm phạm cảnh chùa, ngài làm mưa ra máu buộc chúng rút chạy. Thế rồi ngày 13 tháng chạp, ngài vào am để hoá. Ngày mùng 4 tháng giêng, dân mở khám thấy thơm bèn tạc tượng thờ. Chùa Trăm Gian ở Tiên Lữ thờ chính thức, còn ở Bối Khê thờ vọng. Hội chùa làng tổ chức vào ngày 12 tháng giêng.
Như vậy, chùa Bối Khê được dựng từ thời Trần, hầu như các thời sau đều có sửa chữa, có thể bóc tách ra nhiều lớp văn hoá trực tiếp và nối tiếp qua từng thế kỷ đến tận ngày nay.
Chùa Bối Khê đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1979. Đây là di tích xếp hạng quốc gia đặc biệt./.
Theo Hà Nội Danh thắng và Di tích tập 02