Hương sắc núi rừng bừng dậy trong thơ

Quang Hoài| 29/03/2018 14:29

Thú thực, tôi chưa được đọc một tập thơ nào chuyên viết về nông thôn miền núi các dân tộc thiểu số Việt Nam. Cho nên, khi cầm trên tay tập thơ “Như rừng hoa Tà Phình” được nhà thơ Lê Tuấn Lộc tặng, tôi vô cùng xúc động và có phần háo hức. Bởi như anh nói, đây là một tập thơ anh trải lòng suốt 3 năm trời chuyên chú viết về nông thôn miền núi, mang đậm sắc màu dân tộc mà anh tha thiết yêu thương, vốn có nhiều duyên nợ. Hơn nữa, tôi cũng là người đến với thơ bằng những cảm thức về dân tộc miền núi từ những năm

Hương sắc núi rừng bừng dậy trong thơ

Đến nay, Lê Tuấn Lộc đã cho xuất bản 16 tập thơ, trong đó có 2 tập in chung, 14 tập in riêng trong khoảng thời gian 31 năm tính từ năm 1986 đến cuối năm 2017. Riêng thơ viết về chủ đề miền núi và dân tộc, anh có một độ lùi nhất định với tinh thần “cứ để mùa xuân đến từ từ” cho hoa rừng bung nở trăm sắc ngàn hương, nên từ “Người núi – Người phố” tập thơ đầu đến tập thứ hai “Như rừng hoa Tà Phình” phải trải qua 13 năm trời nghiền ngẫm và suy cảm, bồi bổ cảm xúc và thấu nhận. Đó là thái độ và tinh thần thơ thực sự nghiêm túc và có trách nhiệm. Và đó cũng chính là điều lôi cuốn hấp dẫn tôi đối với tập thơ này.

Tập thơ “Như rừng hoa Tà Phình” của Lê Tuấn Lộc gồm 51 bài như 51 lát cắt sinh động, 51 đóa hoa tâm cảm làm nên vẻ đẹp của những miền đất và con người vùng cao, thể hiện thiên nhiên đẹp đẽ, hùng vĩ, hoang sơ và tâm hồn con người chân thực, phong phú, sâu sắc, trầm ấm, đúng như ý tứ sâu kín của tác giả “Như rừng hoa Tà Phình”.

Năm 2014, Lê Tuấn Lộc cùng nhà văn Nguyễn Đắc Như và nhà thơ Trần Vũ Long vượt qua một đoạn đường đầy ổ gà, ổ trâu gập ghềnh đích thân lên tận Tà Phình, một vùng sâu vùng xa hẻo lánh cách Mộc Châu hơn 20km để mục sở thị thấy rõ “một cuộc chuyển mình mạnh mẽ sâu sắc về nông nghiệp, nông thôn và miền núi”, rồi sau đó “thuê xe máy, định đi từ trưa đến chiều thì về”, nhưng “không ngờ đường xấu, xe hỏng, lại lạc đường, đến 10 giờ đêm mới về đến Mộc Châu”. Như Lê Tuấn Lộc bộc bạch, đó thực sự “như một chuyến xe bão táp”. Nhưng chính chuyến đi ấy đã để lại trong anh những cảm nhận tươi mới, dung dưỡng cảm xúc để anh nhận những đổi thay kỳ diệu của vùng cao qua hình ảnh các em gái dân tộc thiểu số má hồng núng nính, váy hoa xúng xính “Như rừng hoa Tà Phình”. Và thế là bài thơ đã được chọn làm tựa đề cho cả tập để thể hiện ý đồ sáng tạo của mình, như không thể khác được, với tư cách như một điểm trụ vững phóng tầm nhìn với cảm hứng lãng mạn ra các vùng miền núi, dân tộc khác. Đây là toàn văn bài thơ:

Mải chơi xuân tung ta tung tăng
Đường đèo dốc gập gà gập ghềnh
Đào xuân tươi hồng hồng chào mình
Như rừng hoa Tà Phình

Hoa mận trắng sương nắng bay bay
Hoa cải trắng như mây trong mây
Hoa hồng hồng như má em hồng
Hoa chuối đỏ như lửa bập bùng

Mải chơi xuân tung ta tung tăng
Em cười má núng nính núng nính
Váy váy váy… xúng xính xúng xính
Như rừng hoa Tà Phình.

Đó là tiếng reo vui bật thốt từ đáy lòng, có nụ cười hồn nhiên và bước chân nhí nhảnh với những tiết tấu rộn ràng ấm áp như có nhạc và hoạ trong thơ, đúng là một rừng hoa – rừng hoa trẻ thơ trong cuộc đời đổi mới và khởi sắc. Đọc bài thơ này, tôi càng thêm quý mến một tấm tình nồng ấm trong Lê Tuấn Lộc đối với vùng cao.

Từ điểm trụ này, Lê Tuấn Lộc phóng tầm mắt và cái nhìn tâm cảm của mình ra các vùng cao khác để khắc hoạ đậm nét và khá sâu sắc về rừng hoa của mình, làm cho giá trị tư tưởng và nghệ thuật tập thơ ngày càng tăng lên, kích phát niềm hứng khởi của người đọc. Tập thơ như một phòng trưng bày hiện vật mở ra lôi cuốn hấp dẫn người tham quan không chán mắt, hết bất ngờ này sang bất ngờ khác, để rồi nhập hồn vào đó mà say đắm, mà nâng niu. Từ “Mùa hoa tam giác mạch” đến “Tây Trang, mùa hoa cúc quỳ”, rồi “Có một mùa hoa cải trắng”, “Nhị độ mai ở Mộc Châu”, “Hoa chuông”, “Hoa lau màu biên cương”,… Từ “Núi đồi Quản Bạ”, “Đường lên cổng trời” đến “Tỉnh Đông ngày tôi về”, “Bản Cống của em Tết Hoa”, “Ba cô váy hoa tắm ở suối Bản Hoa”, “Mùa kéo vợ”, “Mai sau chết ta xin về Thác Bạc”, “Lễ trưởng thành cho thiếu nữ Chăm Bà Ni”, “Tây Giang, đêm Cơ Tu”, “Lướt trên em Na Hang”,… Từ “Tẳng cẩu”, “Chỉ tại cái váy đen cạp xanh”, “Áo cóm làm anh rối cả lên”, “Ơi người làm tiếng sáo bản ta” đến “Rượu say ở Sa Pa”, “Đêm trăng trên bờ Nhật Lệ”, “Tiếng hát trên đồi cát”, “Uống rượu trên đồi su su”,… Đó là tên các bài thơ đủ sắc màu, có sức hấp dẫn đặc biệt đưa ta vào thiên nhiên và tình người hòa quyện, để thấu nhận vùng cao hôm nay đang đổi mới mạnh mẽ nhưng cũng còn không ít khó khăn, thách thức, gian truân. Tôi cho rằng đây là một thành công đáng kể của nhà thơ Lê Tuấn Lộc trong tập thơ thứ hai anh viết về nông thôn, miền núi dân tộc thiểu số.
Dưới đây xin nêu cảm nhận về một số bài thơ cụ thể.

“Mùa hoa tam giác mạch” là một bài thơ mượn hoa để nói tình người, nhẹ nhàng và dí dỏm. Nào là “Anh thèm những màu hoa chưa có”, nào là “Em tả những bông tam giác mạch/ Mơn man em, lãng mạn tím mê hồn/ Thôi đừng kể, làm anh khao khát”. Nào là “Hay duyên phận anh và hoa không gặp/ Em về Hà Giang cho anh ghen”, “Phố cổ Đồng Văn lãng mạn thêm/ Nhờ mảng tím màu hoa tam giác mạch”… tưởng cứ như tán tỉnh, trêu chọc mà đầy thi vị và thấm thía ý tình của chủ thể trữ tình, bởi những câu thơ mang âm hưởng dân gian, giàu chất folklore. Viết về dân tộc thiểu số, về vùng cao như thế thì không thể không coi trọng và quý mến. 

Và đây là bài “Tây Trang, mùa hoa cúc quỳ”. Cái màu vàng của hoa cúc quỳ trong thơ Lê Tuấn Lộc trải dài trong tâm thức như thách đố các loài hoa khác và cùng với nó để tôn lên vẻ đẹp của mình: “Tây Trang, mùa hoa cúc quỳ/ Dây dưa vàng hai bên bờ suối, vàng cả mái nhà sàn, vàng cả trăm ngọn đồi, vàng cả lối đi, vàng cả suối trong”… “Tây Trang, mùa hoa cúc quỳ/ Làm hoa chuông như phát ghen lên trong màu vàng dây dưa/ Hoa chuông hồng tươi nõn nà, yểu điệu làm nũng nên chiều. Hoa chuông rủ xuống vẫn ngân lên như những tiếng cồng âm vang của người Mường Then. Đừng buồn hoa chuông ơi, đừng buồn hoa ban ơi, đừng buồn hoa mận trắng. Mỗi màu hoa, mỗi mùa hoa tô điểm cho Tây Trang quanh năm rực rỡ sắc màu”. Đó là sự phối màu hoa thật khéo, lấy hoa cúc quỳ làm trung tâm. Ở đây Lê Tuấn Lộc đóng vai trò như một họa sĩ pha màu phết cọ lên toan trắng Tây Trang.

Từ hoa đến người, đây là “Tẳng cẩu” – tức là búi tóc, chỉ phụ nữ Thái có chồng mới búi tẳng cẩu. Ba câu hỏi trong bốn khổ thơ ngũ ngôn: “Sao em lại tẳng cẩu?” như thôi thúc, như dồn nén để rồi bung phá ra cái ý của một tứ thơ thầm kín: Có chồng rồi mà anh vẫn mê ! Chủ thể trữ tình bỗng đột ngột kêu lên: “Em gái Thái xinh ơi/ Sao lại có chồng rồi?/ Sao lại cười duyên thế?/ Làm anh hút hồn thôi”. Bởi vì, em tẳng cẩu, nhưng em vẫn làm “Cho xanh ngẩn ngơ đồi/ Cho hoa mận tàn lụi/ Cho suối thẫn thờ trôi”, đến nỗi “Để anh buồn thơ thẩn/ Bỏ thơ ra suối ngồi” và “Anh lủi thủi ra về/ Rượu cần anh chưa uống/ Chiều còn non Mộc Châu”. Rõ ràng là một bài thơ hay tưởng hở mà không hở, có vẻ thẳng tuột nhưng lại kín và đẫm tình, giàu chất folklore dân tộc thiểu số, nói và nghĩ theo cái bụng của người dân tộc.

Tôi còn muốn thổ lộ cảm xúc của mình với nhiều bài nữa. Nhưng xin tạm dừng ở đây. Phải nói rằng nhà thơ Lê Tuấn Lộc có xung lực viết về đề tài nông thôn, miền núi dân tộc thiểu số. Sau 13 năm, tập thơ thứ hai của anh viết về đề tài này đã có một bước tiến, bước phát triển vượt trội. Đó là điều rất đáng ghi nhận, đáng được trân trọng và sẻ chia.

Vào những dịp Tết, dịp lễ hội, đọc những bài thơ trong tập “Như rừng hoa Tà Phình” của nhà thơ Lê Tuấn Lộc sẽ cho ta niềm hứng khởi và cảm giác khoan khoái hòa vào cái vui chung của đồng bào dân tộc thiểu số trên mọi miền Tổ quốc trong sự nghiệp xây dựng đất nước ta dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với niềm tin mới và hy vọng mới.
(0) Bình luận
  • Hố băng
    Tôi nghe kể có một làng miền Tây hơn năm trăm năm không có lấy một đền chùa, nhà thờ, miếu mạo nào, mà cũng hơn năm trăm năm không có giáo sư, tiến sĩ, kỹ sư, hay cử nhân đại học. Trái ngược hoàn toàn và cái làng sát bên hông nó, có một cái đình to vật vã với sắc phong mỗi mùa nắng ráo, ông từ phải đem ra phơi tràn cả lối đi, với các gia phả chi chít những tri huyện, thượng thư, thái úy.
  • Dưới bóng cây mận già
    Năm ấy, một ngày đầu mùa hè, con ngựa bạch xuất hiện ở cổng nhà tôi với hai cái sọt to tướng đầy măng rừng trên lưng. Chở nặng, và bị cột vào gốc cây, con ngựa đứng im, đầu hơi cúi xuống trầm tư. Cái đuôi dài xác xơ thi thoảng vẩy lên đuổi một con ruồi vô ý.
  • Hạnh phúc của mẹ
    Gần bảy giờ, trời đã nhá nhem tôi mới về tới phòng trọ. Tôi giật mình vì có bóng người đang ngồi thu lu trước cửa. Hóa ra đó là mẹ… Tôi vội hỏi vì sao mẹ lên chơi mà không nói trước để tôi ra bến xe đón. Mẹ nói lên đột xuất nên không muốn gọi, sợ tôi bận, mẹ bắt xe ôm về phòng trọ của tôi cũng được. Lúc này tôi mới để ý dưới chân mẹ là một cái túi du lịch to, mẹ đã mang theo khá nhiều quần áo, chắc không định ở chơi vài ngày rồi về. Lòng dạ tôi bỗng bồn chồn.
  • Câu chuyện một giờ
    Kate Chopin (1850 - 1904) là nhà văn người Mỹ và là một trong những tác giả nữ quyền đầu tiên của thế kỷ 20. Vốn là một người nội trợ, nhưng cuộc đời bà đã thay đổi kể từ sau cái chết yểu của người chồng. Bà trở thành nhà văn viết truyện ngắn đầy tài năng và giàu năng lượng. Kate Chopin được biết đến nhiều nhất qua tiểu thuyết “The Awakening” (1899) - câu chuyện tiên tri đầy ám ảnh về một người phụ nữ.
  • Hoa thủy tiên của mẹ
    Đã nhiều năm trôi qua chúng tôi không lên bờ đón Tết. Mẹ nói đời mẹ gửi cả vào sông. Sống ở trên sông. Mai này mẹ nằm lại đáy sông, nhờ sông giữ giùm phần linh hồn người thiên cổ. Mẹ không muốn xa dòng sông nửa bước. Tôi lớn lên trên chiếc ghe chòng chành sóng nước, qua bao mùa gió trăng. Mùa xuân này tôi ra lái thuyền ngồi chải tóc.
  • Ký ức xương rồng
    (Làm sao em nhớ Mưa ngoài song bay… T.C.S)
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Thưởng thức 6 phim tài liệu đặc sắc về Điện Biên Phủ tại Hà Nội
    Kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5//2024), từ ngày 3 – 5/5 tại Hà Nội, Hãng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương tổ chức “Những ngày phim tài liệu Điện Biên Phủ”, giới thiệu đến khán giả 6 bộ phim tài liệu đặc sắc.
  • [Emagzine] Chiến dịch Hồ Chí Minh: Năm ngày làm nên “lịch sử”
    Chiến dịch Hồ Chí Minh - chiến dịch cuối cùng của Quân đội nhân dân Việt Nam trong Cuộc tổng tấn công và nổi dậy Mùa Xuân 1975, là chiến dịch quân sự có thời gian ngắn nhất trong chiến tranh Việt Nam. Chỉ diễn ra trong 5 ngày (từ 26/4 đến 30/4/1975) song chiến dịch đã đánh dấu mốc son chói lọi trong lịch sử Việt Nam.
  • Điện ảnh Quân đội nhân dân tổ chức Tuần phim kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ
    Điện ảnh Quân đội nhân dân tổ chức Tuần phim Kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954 – 7-5-2024) từ ngày 3 đến 6-5 tại Rạp chiếu phim Điện ảnh QĐND (17 Lý Nam Đế, phường Hàng Mã, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội).
  • “Người chép sử” trận thắng thế kỷ Điện Biên Phủ bằng ảnh
    Năm 1953, nghệ sĩ Nhiếp ảnh (NSNA) Triệu Đại được Bộ Quốc phòng và Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp điều động tham chiến dịch Điện Biên Phủ. Khi ấy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói:"Tôi đánh giá cao về anh Triệu Đại, những bức ảnh về Điện Biên Phủ của anh rất tốt. Triệu Đại ra mặt trận không trực tiếp cầm súng như các chiến sĩ, mà vũ khí là máy ảnh. Các bức ảnh là chiến công của Triệu Đại..."
  • "Lật mặt 7" của Lý Hải cán mốc 100 tỉ sau 3 ngày ra rạp
    Theo số liệu từ Box Office Vietnam (trang thống kê độc lập), Lật mặt 7: Một điều ước cán mốc 100 tỷ đồng vào sáng 29/4, trở thành phim Việt thứ hai vượt mốc 100 tỷ đồng trong năm nay, sau Mai của Trấn Thành.
Đừng bỏ lỡ
Hương sắc núi rừng bừng dậy trong thơ
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO