Truyện

Hố băng

Truyện ngắn của Huỳnh Trọng Khang 07:44 14/04/2024

Tôi nghe kể có một làng miền Tây hơn năm trăm năm không có lấy một đền chùa, nhà thờ, miếu mạo nào, mà cũng hơn năm trăm năm không có giáo sư, tiến sĩ, kỹ sư, hay cử nhân đại học. Trái ngược hoàn toàn và cái làng sát bên hông nó, có một cái đình to vật vã với sắc phong mỗi mùa nắng ráo, ông từ phải đem ra phơi tràn cả lối đi, với các gia phả chi chít những tri huyện, thượng thư, thái úy.

img_3182gmgjmgym.jpg

“Kỳ cục thiệt!” Tiên sinh vừa nói vừa lúc lắc đầu như thể muốn trút cái kỳ cục đó ra khỏi trí nhớ.

Ông cũng chính là người kể cho tôi về cái làng không phất đường khoa bảng nọ, cái làng mà ông đã sinh vào đêm tiết cốc vũ trong nhà mụ bà mù chữ.

“Ông tôi thọ một trăm lẻ ba tuổi. Cả đời ông chẳng bao giờ ra khỏi cái làng từ lúc sinh ra đến lúc đem chôn. Cha tôi gần được như thế. Hồi trẻ ông từng một lần qua làng bên tán gái nhưng bị trai làng đó đánh bể đầu. Từ đó vừa sợ vừa giận, nửa đời không bước sang làng đó nữa. Vậy mà chú thấy đó, giờ tôi đi tít mù làng”. Tiên sinh kể.
Chốn ấy còn chẳng có nổi một cái đình làng. Trong ký ức của các bậc bô lão, chưa bao giờ họ nhớ làng của mình từng tồn tại một cái đình, cứ như làng đã bị thánh thần và triều đình bỏ rơi bên lề của một đời sống trần thế lơ lửng giữa có và không. Ngôi làng nhưng không văn tự, chiếu chỉ, kinh sách và không cả một bản dư địa chí chép sơ sài ghi lại nguồn gốc của làng, giải thích cho cái tên nửa Nôm nửa Hán mà người làng mặc sức muốn hiểu sao thì hiểu.
Vào ngày rằm tháng Giêng, dân làng chèo thuyền ra sông cái, họ thả một vò rượu thượng hạng đặc sản của làng kèm theo đồ tế lễ xuống nước. Có năm dân chúng khấm khá, mấy thằng ma cà bông núp trong bụi lau ven sông, đợi thuyền mọi người chèo về bờ thì hụp xuống đáy, vớt được cả con heo cúng trắng phau, đem lên đốt lửa nướng ăn như thường.

“Nhưng lạ là rượu cúng thì không bao giờ tìm thấy.” Tiên sinh kể. Có đứa lặn xuống, thấy ngồi thu lu dưới đáy nước một đứa trẻ mặt chà bá như cái mâm, da xanh xao nhợt nhạt, ôm khư khư vò rượu.
“Ở cái làng đó, đến hà bá cũng nghiện rượu!” Tiên sinh nói. Tôi biết, chính tiên sinh cũng uống rượu rất giỏi. Tôi mới gặp ông chừng hai tiếng trước nhưng trong khoảng hai tiếng đó ông đã tu ừng ực hết ba chai rượu mạnh.

Tiên sinh và tôi đang ở một cái làng ở Đức. Cái làng lúc tôi mới dọn đến đây, ông thị trưởng giới thiệu rằng, nó đã một ngàn năm tuổi, tên nó được đặt theo tên một anh hùng đã có công lãnh đạo nhân dân chống lại quân thù, nó có những kỳ quan kiến trúc gì, danh lam thắng cảnh nào hấp dẫn, người làng nào đã thành nhà triệu phú, văn hào bán triệu bản sách, nghệ sĩ vĩ cầm lừng danh thế giới, giáo sư vật lý, tiến sĩ toán học… Tóm lại là một cái làng hết sẩy. Hay có thể nói là cái làng đối nghịch với cái làng của tiên sinh.

Tiên sinh và tôi đang ở một cái làng ở Đức. Đúng hơn là đang ngồi trên con hồ đóng băng ở cái làng ấy. Xung quanh là cánh rừng trơ trụi phủ đầy giá tuyết bọc trong vòng tay của những ngọn núi mờ xa im tiếng. Như thể một sinh vật ma thuật nào rơi rớt từ những trang sách Grim ẩn núp và chờ đợi phóng ra vồ lấy hai con người đang bất chấp thời tiết mà ngồi câu cá giữa hồ băng hiu hắt xa cách quê hương vạn dặm.

Ánh mắt tôi lần mò theo sợi dây câu xuống hố băng. Như thả vào hư vô. Dưới kia mịt mùng không thấy gì hết ngoài một màu đen sẽ không thôi đặc lại thành dầu.

Tôi gặp tiên sinh lần đầu cách nay một tuần cũng tại hồ băng này. Ông cũng buôn lưỡi câu như thế, bên cạnh là cái xô rỗng không và kể từ dạo đó chưa bao giờ tôi thấy con cá nào trong xô. Rõ ràng tiên sinh không phải ngư phủ tài ba chi ráo. Tôi cũng không phải là ngư phủ ráo chi, suốt nhiều năm tôi đã thử vận mình bên bãi sông Hậu nhưng lần duy nhất tôi câu dính cá thì cái con thủy sinh tội nghiệp đó bé đến mức tôi chẳng buồn chụp ảnh lại làm kỷ niệm. Nhưng biết đâu được, ở nơi cách cố thổ nghìn trùng, rốt cục một ông phúc thần tây phương có thể vì cảm thương cho kẻ xa xứ lìa quê mà ban cho chút ân mưa móc. Vào một ngày mùa đông, khi mặt trời cuối cùng cũng chịu mọc, tôi xách khoan, xô, và cần ra tìm kiếm con cá định mệnh của mình. Vừa đến nơi, tôi đã gặp tiên sinh ở đó.

Tôi ngại ngùng chào nhỏ. Tiên sinh đang ngồi thu lu bên miệng hố băng như con gấu già đáng thương, quay phất lại nhìn tôi, mắt sáng lên, nói rổn rảng:

“Việt Nam hả?”
Tôi kinh ngạc vì tưởng mình đã qua đây hơn mười năm, thứ tiếng Đức mình nói ra hẳn là thứ tiếng Đức của Goethe.
“Có gì đâu thắc mắc. Nghe khẩu âm là biết liền.” Tiên sinh phá giải nghi ngại của tôi. Chẳng biết nói gì, tôi gãi gãi đầu, định khoan xuống mặt băng.

“Không cần!” Tiên sinh ngăn. “Lại đi, câu chung cho vui.”
Tôi bày ghế ra ngồi đối diện tiên sinh, nhẹ nhàng thả lưỡi câu, nước khẽ xao phát ra một âm trong. Bên rừng, có tiếng đập cánh của loài chim nào không rõ.

“Chẳng phải hồng nhạn đâu.” Tiên sinh nói. “Mùa này chúng bay về phương Nam trốn tuyết hết rồi. Bình thường chúng làm tổ quanh hồ này.” Ông ngập ngừng giây lát. “Có khi nào chúng bay đến tận quê hương ta không?” Đôi mắt tiên sinh nhìn xa xăm như thể quên đi sự hiện diện của tôi rồi như chợt thấy mình thất lễ, ông hỏi: “Về làng này khi nào?”
“Dạ, tuần trước.”
“Chú làm nghề chi?”
“Dạ, giáo viên toán.”
Tiên sinh gật gù: “Vậy là tôi biết chú dạy trường chi rồi. Chú thay vị trí của ông Herman mới mất tháng trước. Hồi còn sống ổng cũng là bạn câu của tôi.”
Có một khoảng lặng kéo dài, thời gian như hóa tượng cùng cái lạnh để tiên sinh phải xoa tay khẽ khàng hỏi tôi cho bớt giá băng:
“Tôi hỏi câu này mong chú đừng giận. Sao chú lại chọn làm giáo viên.”
“Tôi mê thơ Rilke nên mới tìm đến nước Đức này. Nhưng qua thời gian tôi nhận ra mình chẳng có tài. Từ ngữ là một thứ gạch dùng để xây tường đắp lũy. Tôi không nắm bắt được, tôi chỉ tạo ra nhiều hiểu lầm thêm bằng thứ từ ngữ vụng về. Tôi đã mơ thành thi sĩ, thành văn nhân, cuối cùng tôi nhận ra mình ngộ nhận nhiều thứ, về tài năng, về cuộc đời. Trong toán học, người ta nói cùng một ngôn ngữ. Không có sự ngộ nhận. Nhưng tôi cũng chẳng là nhà toán học có tài, nên thôi, tôi đi dạy vậy.”

Tiên sinh gật gù. Từ đó đến cuối buổi ông không hỏi tôi thêm câu nào nữa. Lúc chia tay, chúng tôi trao đổi số điện thoại. Ít lâu sau, tiên sinh gọi hẹn tôi đến nhà chơi.

Ông ở một nơi hẻo lánh, tách mình khỏi khu dân cư. Một căn nhà gỗ rộng lớn, treo đầy tranh vẽ. Bây giờ, tôi mới biết tiên sinh là một họa sĩ thành danh. Tôi đồ rằng, phần lớn tranh của ông được vẽ trong lúc say. Cái thần thái tửu đồ đã đi vào hội hoạ, xô lệch cả nét bút, màu sắc lững thững nối nhau không theo lớp lang, cũng không rõ ông muốn truyền tải thông điệp gì trong những họa phẩm.
“Rốt cuộc làng ấy cũng sản sinh ra một nhà nghệ thuật.” Tôi hỏi, sau khi nghe ông kể về cái làng thiếu vắng vĩ nhân của mình.
“Nhưng tôi chẳng thể nào đem cái làng ấy vào tranh của mình được. Tôi có thể vẽ chính xác từng chi tiết, tôi có thể vẽ bức tranh khổng lồ về mọi cảnh mọi người trong cái làng ấy. Nhưng tôi không diễn tả được cái không của nó. Sự thiếu vắng đến dị kỳ tôi nói với cậu nãy giờ, tôi chẳng làm sao dùng tranh vẽ để người khác hiểu được”.

Bây giờ đang là tiết đông chí, tôi cùng tiên sinh uống rượu nhưng không bàn về những cuộc chia ly như trong một bài thơ xưa. Tiên sinh đã đi khắp đông khắp tây, đã ngủ ở những khách sạn lộng lẫy nhất Nữu Ước đã đến thăm các lâu đài, cung điện ở vùng Địa Trung Hải. Nhưng lại bị ám ảnh bởi cái làng nghèo chịu không ai nhớ nổi tên ở miền Tây.

Tôi muốn nói với tiên sinh rằng cái làng của ông chẳng cần tranh vẽ hay bất kỳ thứ văn tự nào để lưu danh nó. Nó đã tồn tại hàng trăm năm trước khi ông ra đời và sẽ tồn tại hàng trăm năm nữa sau khi ông chết đi. Bản thân sự tồn tại dài lâu như thế đã chứng tỏ mọi điều hẳn hữu lý. Nếu trong toàn cái xứ ấy ai cũng trọng học hành, chữ nghĩa, ai cũng muốn vươn lên thành ông nọ ông kia, thì cái làng của tiên sinh đã bị xoá bỏ, sát nhập, hay vẫn là cái làng nhưng không là cái làng ám ảnh ông nữa.

Cái làng không ai nhớ nổi tên ấy, cái làng mà tiên sinh đã lục hết thư tịch chỉ tìm được đúng một dòng là Gia Long lúc bôn tẩu từng qua đấy ngủ một đêm dưới gốc đa (giờ đã bị đốn hạ, làng tiên sinh không còn gốc đa nào), vốn dĩ nó không cần làm việc kinh thiên động địa gì để cần lưu danh muôn thuở. Nó đã chấp nhận đời này kiếp này không sinh ra được vĩ nhân nào. Thậm chí rằng tôi nghĩ cái làng ấy đã cố kháng cự lại toàn thể xứ sở như một thách thức, rằng nó không cần thứ hư vinh mà ai cũng muốn, nó chứng minh không cần những hão huyền đó nó vẫn tồn tại và buộc những đứa con như tiên sinh phải nhớ về nó.

Tiên sinh ngủ gục, có lẽ nãy giờ, không từ nào trong mấy lời an ủi của tôi lọt vào tai ông. Phía sau ông, bức tranh treo ở phòng bếp, một bức tranh có màu xanh lục chủ đạo, một màu xanh lục vô cùng chói gắt không thể cắt nghĩa được. Nó có thể là một cánh đồng đang vào mùa. Những nông dân khom lưng giấu mình dưới ruộng, không ai thấy mặt và cũng không cần ai nhớ mặt. Tôi biết bức tranh này, đây là bức vẽ trong giai đoạn đầu của tiên sinh, lúc ông rời làng và quyết định chu du khắp chốn để hoàn thiện nghệ thuật của mình. Bức tranh khác hoàn toàn so với những bức về sau, nghĩa là… tôi vẫn còn nhìn ra tiên sinh vẽ gì, chứ không như những vệt màu túy lúy.

Mà thật ra thắc mắc lớn nhất của tôi, tại sao tiên sinh không hồi hương cho khuây khoả? Có lẽ cái tiên sinh đối diện, không phải cái không của ngôi làng mà là sự đầy ắp của nó trong ông. Nhiều năm xa xứ khiến ông sợ hãi nếu trở về ngôi làng và thấy nó không còn giống ký ức. Ông luôn miệng bảo rằng làng mình cái gì cũng không có, nhưng ông luôn nói với vẻ thích thú, đôi khi, không giấu chút tự hào. Mỗi người chúng tôi đều có một cái làng, ta đem theo cái làng đó trong mình, lang thang khắp chốn. Một ngày giật mình nhớ lại, nhận ra rốt cục mình chỉ như đứa trẻ, loanh quanh chơi trên đường làng.

Đến cuối mùa đông, tôi nghe tin tiên sinh bước hụt chân xuống hố băng. Chẳng rõ người dạn dày kinh nghiệm như ông vì sao lại không ý thức được rằng lớp băng trên hồ đã tan mỏng đi nhiều lắm.
Tôi vẫn thường nghĩ về cái hố tiên sinh rơi xuống, nó cứ rộng ra mãi trong tâm tri tôi cho đến lúc thành một thứ hư vô, và đi đến tận cùng hư vô ấy một ngôi làng hiện ra. Không ngủ được, tôi ra khỏi phòng, trên bàn bếp của một người nhà quê Việt Nam sống ở thôn làng của nước Đức, tôi bắt đầu gõ chầm chậm:
Ngày xửa… ngày xưa… [Không, mở đầu vậy thì hơi rập khuôn. Xoá, xoá]… Tôi nghe kể có một cái làng ở miền Tây…

Bài liên quan
  • Dưới bóng cây mận già
    Năm ấy, một ngày đầu mùa hè, con ngựa bạch xuất hiện ở cổng nhà tôi với hai cái sọt to tướng đầy măng rừng trên lưng. Chở nặng, và bị cột vào gốc cây, con ngựa đứng im, đầu hơi cúi xuống trầm tư. Cái đuôi dài xác xơ thi thoảng vẩy lên đuổi một con ruồi vô ý.
(0) Bình luận
  • Tiếng hát trong vỏ ốc
    Đêm. Run rủi thế nào hai người phụ nữ ấy lại gặp nhau ngay trên bãi cát. Biển về khuya vắng lặng. Những cặp tình nhân thậm chí cũng đã rời đi vì gió trời bắt đầu trở lạnh. Cô đang giẫm lên dấu chân xiêu vẹo của người phụ nữ đi trước mình. Người đàn bà ấy chậm rãi từng bước, dáng đi có phần nghiêng ngả như một kẻ say.
  • Quà trung thu của ba
    Khoa đang rất vui vì lần đầu tiên được cùng ba tự tay làm đồ chơi Trung thu. Những năm trước, cậu cũng có đèn lồng, đầu lân nhưng đều là quà mẹ mua sẵn vì ba phải đi công tác. Năm nay, ba được nghỉ phép, liền rủ Khoa cùng làm đầu lân bằng tre và giấy báo cũ.
  • Đôi mắt xuyên bão
    Buổi sáng đầu thu, gió vương chút lạnh và lá trên hàng sấu trước cửa văn phòng Hương bắt đầu úa vàng. Hương pha một ấm trà sen. Thói quen ấy cô đã giữ suốt bao năm cho dù cô chẳng nghiện.
  • Chuyện người đàn bà
    Chín năm về trước, vào khoảng chiều tối, anh phó công tố viên Py-ốt-tơ-rơ Xia-rơ-dếch và tôi ngồi xe ngựa băng qua đồng cỏ đang mùa phơi để đưa mấy lá thư từ trạm về.
  • Sau bão
    Tiếng ấm đun sôi ùng ục. Chị toan mở nắp, chợt nghe có tiếng bước chân. Lại thế. Bà Thịnh giật lấy quả trứng khỏi tay chị. Bà miết ngón trỏ lên vỏ trứng nhẵn bóng như muốn truyền vào đó một thứ nôn nóng khó tả, rồi đập vỡ bằng cái bực dọc đang hừng hực dâng lên. Chẳng ai được ăn quá hai quả trong tuần. “Mì còn dư, lại muốn trương ra rồi húp?” - bà liếc sắc lẹm, ánh nhìn như lưỡi móc câu thọc thẳng vào miệng cá.
  • Tiếng “tút tút” cuối cùng
    Xóm Tìm nằm nép mình bên dòng sông Trà Lý, nơi bầu trời dường như sà xuống thấp hơn, và mùi bùn non cứ thế quyện vào hơi thở, vào máu thịt của những người dân lam lũ. Ở cái xóm nhỏ ven đê này, mỗi buổi sáng, vào lúc sáu giờ, một chuỗi âm thanh quen thuộc “tút tút…” lại vang lên từ chiếc loa truyền thanh của xã đặt trên đỉnh cột làm từ một cây xoan già.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
  • Cơ hội khám phá “Những phát hiện khảo cổ từ Vườn Chuối” tại Bảo tàng Hà Nội
    Ngày 9/11/2025, tại Bảo tàng Hà Nội (đường Phạm Hùng, phường Từ Liêm), Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội đã tổ chức khai mạc trưng bày chuyên đề “Những khám phá khảo cổ từ Vườn Chuối” và công bố kết quả nghiên cứu khoa học di tích khảo cổ học Vườn Chuối năm 2025.
  • "Mỗi người dân Hà Nội là một kênh gìn giữ - kết nối di sản"
    Với Festival Thăng Long - Hà Nội lần đầu tiên tổ chức, Ban tổ chức mong muốn: Mỗi người dân sẽ tự mang trong mình hồn cốt của lịch sử, văn hóa Thủ đô ngàn năm văn hiến, mỗi người dân là một “di sản” hiện hữu trong cuộc sống hằng ngày, vừa là quá khứ, vừa là hiện tại và vừa kết nối tương lai. Phóng viên đã cuộc trò chuyện với bà Bạch Liên Hương, Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội xung quanh Festival Thăng Long - Hà Nội năm 2025.
  • Phát động cuộc thi “Kính Vạn Hoa mở ra thế giới…”
    Nhân dịp kỷ niệm 30 năm ra mắt bộ truyện “Kính Vạn Hoa” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh - một trong những tác phẩm kinh điển của văn học thiếu nhi Việt Nam, Nhà xuất bản Kim Đồng vừa phát động cuộc thi Viết & Vlog “Kính Vạn Hoa mở ra thế giới…”.
  • "Sông Hồng gọi, đại ngàn reo" – Âm vang cồng chiêng giữa lòng Thăng Long - Hà Nội
    Tối 6/11, đêm nhạc “Sông Hồng gọi, đại ngàn reo” nằm trong khuôn khổ Festival Thăng Long - Hà Nội 2025, đã diễn ra tại hồ Văn (Văn Miếu - Quốc Tử Giám).
  • Câu lạc bộ Life's So Drama: Nơi đam mê kịch nghệ được chắp cánh
    Life’s So Drama là Câu lạc bộ (CLB) Kịch nghệ đầu tiên và duy nhất được thành lập và duy trì bởi các học sinh và cựu học sinh Trường THPT chuyên Hà Nội – Amsterdam (Hà Nội). Tiền thân, CLB được thành lập và duy trì bởi các học sinh và cựu học sinh Trường THPT chuyên Hà Nội – Amsterdam, nhưng vài năm trở lại đây, CLB đã mở rộng phạm vi hoạt động ra các trường THPT trên toàn địa bàn thành phố Hà Nội.
  • Nhà hát Kịch Việt Nam giới thiệu chuỗi chương trình nghệ thuật đặc biệt mang tên "Âm vang người lính"
    Nhà hát Kịch Việt Nam giới thiệu chuỗi chương trình nghệ thuật đặc biệt mang tên "Âm vang người lính" với sự trở lại của ba vở kịch từng “gây sốt” trên sân khấu: Đêm trắng, Biệt đội Báo Đen và Bão tố Trường Sơn. Các vở diễn sẽ được tổ chức tại Nhà hát Kịch Việt Nam (số 1 Tràng Tiền, phường Cửa Nam, Hà Nội).
  • Nhà hát Lớn Hà Nội kể chuyện di sản 115 năm bằng ánh sáng và công nghệ
    Lần đầu tiên trong lịch sử, Nhà hát Lớn Hà Nội tạm khép lại cánh cửa biểu diễn thường nhật để trở thành chính "sân khấu của mình". Toàn bộ không gian như từ sảnh đón, cầu thang, khán phòng đến mái vòm được "đánh thức" bằng ánh sáng, hình ảnh và âm thanh, tái hiện ký ức hơn một thế kỷ của di sản kiến trúc. Dự án "115 năm Nhà hát kể chuyện – Di sản cất lời bằng ánh sáng và công nghệ" là dự án nghệ thuật đặc biệt nhân dịp kỷ niệm 115 năm ngày khánh thành Nhà hát Lớn Hà Nội, công trình kiến trúc mang đậm dấu ấn lịch sử và là biểu tượng văn hóa của Thủ đô.
  • Hà Nội lan tỏa phong trào thôn, tổ dân phố văn hóa tiêu biểu
    Phát biểu khai mạc Sơ khảo Liên hoan Thôn, Tổ dân phố văn hóa tiêu biểu Thành phố Hà Nội năm 2025, Phó Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội Phạm Xuân Tài, nhấn mạnh: “Liên hoan không chỉ là dịp để biểu dương, tôn vinh những tập thể tiêu biểu trong phong trào, mà còn là một nhịp cầu nối để phong trào tiếp tục lan tỏa mạnh mẽ và bền vững trong bối cảnh thực hiện mô hình chính quyền đô thị hai cấp”.
  • Hoàn thiện thể chế để công nghiệp văn hóa trở thành động lực phát triển bền vững
    Ngày 4/11, Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp cùng UBND phường Cửa Nam (TP Hà Nội) tổ chức hội thảo khoa học "Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về hoàn thiện thể chế phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, nhằm góp phần tạo động lực phát triển nhanh và bền vững đất nước trong điều kiện mới".
  • Thành lập Hội đồng cấp thành phố xét tặng danh hiệu "Nghệ nhân Nhân dân", "Nghệ nhân Ưu tú" nghề thủ công mỹ nghệ năm 2025
    Chủ tịch UBND TP Trần Sỹ Thanh đã ký ban hành Quyết định số 5425/QĐ-UBND ngày 03/11/2025 về việc thành lập Hội đồng cấp thành phố xét tặng danh hiệu "Nghệ nhân Nhân dân", "Nghệ nhân Ưu tú" nghề thủ công mỹ nghệ năm 2025 và Tổ thư ký giúp việc Hội đồng.
Hố băng
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO