Cuộc thi viết Hà Nội & Tôi

Ấm áp tình người Hà Nội

Nguyễn Vân Hậu 27/03/2023 17:25

Nghĩ đến Thăng Long - Hà Nội, nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm”, từ thẳm sâu thời gian, ký ức miên man về ân tình người Hà Nội trong tôi lại bừng dậy, tuôn trào. Cảm xúc thúc giục tôi mỗi lần ra Hà Nội phải giành chút thời gian, lúc thì tạt ngang qua Bến Nứa bằng xe xích lô đạp, hòa vào dòng người và xe cộ; lúc thì tản bộ lang thang dọc phố Thợ Nhuộm mà ngày xưa cảm giác như nó dài hun hút.

Cũng có lúc qua cầu Long Biên, tìm đến làng Sài Đồng trong tâm tưởng – bây giờ là phố thị đông đúc, nơi có còn người mẹ quê đón chúng tôi trong ngôi nhà ấm áp khi từ chiến trường K trở về.

Tình mẹ Việt Nam

Những ngày cuối tháng 2/1979, dưới cái nắng nóng khét lẹt như muốn rang khô người lính trong từng mét chiến hào ở chiến trường K, đơn vị tôi được lệnh bàn giao chốt, hành quân hơn hai chục cây số đến cảng Sihanoukville lên tàu về nước. Một cuộc chuyển quân quy mô lớn chi viện biên giới phía Bắc đánh đuổi quân giặc xâm lược bắt đầu.

Sau hành trình dài 2 ngày đêm lênh đênh trên biển, tàu cập cảng Sài Gòn vào một buổi tối. Tờ mờ sáng hôm sau, toàn đơn vị lên máy bay đi tiếp. Chúng tôi lim dim ngủ cho đến khi một nữ tiếp viên hàng không xuất hiện, lính ta nhao nhao: “Ôi, đẹp thế... Xinh thế!”, “Máy bay bay đến sân bay nào hả em?!?”... “Vâng, máy bay sẽ hạ cánh ở sân bay Gia Lâm các anh ạ!”. Giọng Hà Nội của nữ tiếp viên nhẹ nhàng như tiếng chim họa mi khiến cho trái tim những chàng trai bồi hồi, xao xuyến sau bao ngày chỉ nghe tiếng súng và đạn bom. Mấy chiến sĩ hỏi tới tấp nhiều câu hỏi nữa, nhưng sĩ quan chỉ huy nhắc nhở, yêu cầu giữ trật tự.

gia-dinh-tac-gia-trong-mot-lan-vieng-lang-bac-nam-2005-anh-van-hau.jpg
Gia đình tác giả trong một lần viếng Lăng Bác năm 2005

Chiếc TU 134 hạ cánh, chúng tôi ra khỏi khoang máy bay, cảm xúc lâng lâng, hít thật sâu khí trời của đất Thăng Long ngàn năm văn vật. Đoàn quân rời sân bay trong làn mưa xuân và cái rét ngọt nàng Bân, hành quân qua cánh đồng lúa đang thì con gái, lá xanh mơn mởn, dập dờn theo từng cơn gió. Bao ngày ở chiến trường xa mới hiểu thế nào là nỗi nhớ Tổ quốc, ai cũng muốn được trở về nơi nào đó trên đất nước mình, được gặp đồng bào mình, được nghe tiếng nước mình. Bây giờ thì chúng tôi mãn nguyện rồi.

Tiểu đội tôi xin vào ở nhờ nhà mẹ Chữ làng Sài Đồng (xã Gia Thụy, Gia Lâm, Hà Nội). Mẹ trạc tuổi lục tuần, dáng cao gầy, hiền hậu, niềm nở đón chào, tự tay sửa soạn chỗ ở, dành hết cho chúng tôi căn nhà trên, còn mẹ và người con trai cả cùng người con gái ở nhà dưới. Mấy chiến sĩ ta ngày thường lười chuyện bếp núc, giờ ai cũng xung phong làm “anh nuôi” cho tiểu đội vì được xuống bếp tán chuyện với con gái của mẹ.

Thấy chúng tôi đứa trải tăng nilon nằm dưới sàn nhà, đứa ra mắc võng dưới gốc cây ngọc lan bên hiên, mẹ mắng: “Mẹ cấm mấy đứa nằm dưới đất, nằm võng, cứ lên giường mà nghỉ ngơi cho thoải mái. Nhìn đứa nào cũng gầy, đen, mắt thâm quầng thế kia, tao thương chúng mày quá!”. “Không sao mẹ à, chúng con quen rồi!”.

Chúng tôi ý tứ bảo nhau: “Người ngợm thế này mà dám leo lên giường êm, nệm hoa của gia đình sao?!”. Những ngày tháng vào sinh ra tử trên chiến trường, trải qua bao trận đánh khốc liệt, khói thuốc súng quện với bụi bặm và nắng cháy, lâu ngày không có nước tắm rửa khiến cho bộ dạng tụi tôi ai cũng đen nhẻm, gương mặt hốc hác vì thiếu ngủ. Tình thương và sự dứt khoát của mẹ khiến chúng tôi phải vâng lời xếp tăng, võng, lên nằm giường, thiếp đi trong giấc ngủ say nồng.

Quân lệnh không báo trước, đêm hôm sau, đơn vị nhận lệnh hành quân. Chúng tôi vội thu xếp quân trang, từ biệt mẹ và gia đình. Mẹ bùi ngùi khóc, cầm tay từng đứa, nghẹn ngào: “Mẹ chưa kịp nấu cho chúng bay một bữa đàng hoàng thì đã đi rồi, biết làm sao được. Mẹ chúc các con lên đường chân cứng đá mềm, có dịp nhớ về thăm mẹ và các em nhé!”.

Lưu luyến chia tay, chúng tôi lặng lẽ theo đội hình hành quân sang ga Yên Viên. Đoàn tàu quân sự ôm vào lòng mình đoàn chiến binh, hụ một hồi còi dài rồi xình xịch chuyển bánh lao đi hướng ra miền biên cương, rầm rập khí thế đoàn quân ra trận, các chiến sĩ hát vang ca khúc “Lời tạm biệt lúc lên đường” của nhạc sĩ Vũ Trọng Hối: “Ngày ra đi hướng biên cương/ Gió bấc tràn về lòng anh lạnh buốt/ Nòng súng thép dán câu thơ/ Ý thơ tuyệt hay là thơ Lý Thường Kiệt… Giặc dùng đạn bom thì ta giáng trả đạn bom/ Quyết chiến thắng cho hôm nay...”. Tiếng hát thúc giục, vang vọng lan truyền từ toa này đến toa khác, át cả tiếng bánh sắt ma sát trên đường ray.

Bắt theo nhịp điệu hào hùng, tôi căng mắt nhìn ra cửa sổ con tàu, thấp thoáng những ngôi nhà, làng mạc, cánh đồng… lướt qua rồi chìm trong màn đêm. Chúng tôi đi mang theo bóng hình người mẹ làng Sài Đồng – Tình mẹ Việt Nam, bước vào trận mới đánh đuổi quân giặc xâm lược, giữ gìn bờ cõi, giữ cho đất nước thanh bình, cho những giấc ngủ bình yên... Dù chưa biết ngày mai ai được trở về, ai ngã xuống, nhưng những người lính không một chút ưu tư.

Chiếc bánh chưng lúc đói lòng

Một ngày cuối thu 1979, từ mặt trận biên giới Lạng Sơn, tôi mừng vui trở lại Hà Nội để gặp người thân ở miền Nam ra thăm. Sáng hôm cầm tờ “Giấy Công lệnh”, tôi xách ba lô lao nhanh ra đường lộ đón xe xuôi Hà Nội, trong túi áng chừng chỉ có vài đồng bạc. Không sao, lính mà, đi “tranh thủ” là phải nhanh, nếu không, chẳng may có báo động đơn vị sẵn sàng chiến đấu thì phải quay lại ngay. Thời chiến chinh nên nhiều “bác tài” xe khách, xe tải thường cho bộ đội quá giang không lấy tiền. Hôm đó, vẫy được chiếc xe khách Hải Âu, tôi rỉ tai anh phụ xe xin đi nhờ, anh ấy hỏi: “Bến Nứa à?” rồi vui vẻ gật đầu, còn giành cho tôi một chỗ đứng tốt trên xe đông người chen chúc.

Xe qua cầu Long Biên rồi đỗ ở Bến Nứa, tôi loay hoay tìm đến được điểm hẹn ở phố Thợ Nhuộm nhưng không gặp người thân. Thất vọng tràn trề vì ngoài dự kiến, cũng chẳng biết tìm nhau ở đâu vì thông tin liên lạc ngày ấy không như bây giờ. Túi tiền thì nhẹ tênh, lòng lại nặng trĩu, tôi vội vàng quay trở lại Bến Nứa may còn kịp chuyến xe cuối cùng trở về đơn vị; tự an ủi mình dù sao cũng đã có những khoảnh khắc bình yên, thảnh thơi giữa lòng Thủ đô sau những tháng ngày gian lao ngoài mặt trận. Tôi chợt nhớ ra, đây là lần đầu tiên mình bước chân trên đường phố Hà Nội, lại đúng dịp mùa thu, là mùa đẹp quyến rũ nhất trong năm mà bất cứ ai cũng đắm say, vương vấn khi một lần qua. Tận hưởng làn gió mơn man mát dịu của chiều thu Hà Nội, tôi vừa rảo bước, vừa hỏi dò đường đi, thi thoảng ngước nhìn bầu trời xanh biếc không một gợn mây hiện ra dưới những tán cây đang chớm ngả sắc vàng, lắng nghe tiếng xào xạc của mấy chiếc lá khô nhảy múa dưới mỗi bước chân, trong lòng vơi dịu bớt nỗi buồn.

Bỗng nghe: "Anh bộ đội ơi, về đâu tôi đưa đi". Tôi chậm bước ngoảnh lại, vừa từ chối lời mời mọc của anh đạp xe xích lô, vừa nghĩ bụng: “Tiền đâu mà dám xài sang, cuốc bộ thôi”. Anh xích lô tuổi xấp xỉ tứ tuần cứ bám theo nài nỉ. Từ chối mãi không xong, tôi dừng lại, thú thật: "Anh ơi, tôi chỉ còn tiền mua vé xe từ Bến Nứa về đơn vị ở Lạng Sơn, nếu anh mua giúp tôi bộ quần áo này tôi mới đủ tiền trả anh?". Tôi mở ba lô lấy ra bộ quần áo bộ đội, tuy hơi ngả màu nhưng thời đó như vậy là khá oách.

Có lẽ, lời bộc bạch và bộ dạng của tôi lúc đó đã chạm đến trái tim nhân hậu của bác xích lô. Anh ấy nhìn tôi với ánh mắt thân thiện: “Chú em đưa cái ba lô đây, lên xe đi!". Tôi chưa hiểu ý, còn chần chừ thì anh ấy gắt: “Đã bảo lên xe. Tôi về nhà trên Bến Nứa, tiện thể tôi đưa đi, không lấy tiền chú đâu, yên tâm!”. Nửa tin, nửa ngờ nhưng tôi vẫn vâng lời bước lên xe. Chiếc xích lô chạy bon bon trên đường phố dài. Ngồi lặng im, tôi vừa nghĩ về lòng tốt của anh ấy, vừa cảm thấy ái ngại quá chừng, người ta đã cho đi nhờ rồi mà còn phải vất vả. Tôi liền đề nghị anh dừng xe giao tay lái cho tôi. Chúng tôi thay nhau đạp, lúc đầu còn lóng ngóng, sau quen dần, chiều muộn thì đến Bến Nứa, anh ấy giục vào quầy mua vé ngay kẻo trễ.

May quá, vẫn còn vé, tôi được ưu tiên vì là bộ đội, có “Giấy công lệnh”. Cầm vé xe, vét túi số tiền còn lại, tôi quay ra gặp anh xích lô: "Em chỉ còn chừng này, bác nhận tạm cho em đỡ áy náy!". Anh ấy gạt đi, chỉ vào người bán quán vỉa hè bảo tôi trả tiền mua 2 cái bánh chưng nhỏ, anh cầm 1 cái còn 1 cái đưa cho tôi. Đúng lúc xe chuyển bánh, tôi chỉ kịp nói lời cảm ơn rồi vội vàng bám cửa xe nhảy lên, sực nhớ mình chưa biết tên, địa chỉ của anh ấy. Dọc đường, tôi mở bánh chưng ra ăn mà thấy cay cay trong khóe mắt, vừa biết ơn vừa tự trách mình sao vô tâm.

Gần nửa thế kỷ kể từ lần đầu đặt chân đến Thủ đô, với biết bao trải nghiệm cuộc đời, tình bạn, tình đồng đội, tôi nghiệm ra rằng: Tình người Hà Nội thật ấm áp, nó không là ngọn lửa bùng cháy, nhưng là bếp than hồng nồng đượm, lắng sâu.

Tác phẩm tham dự cuộc thi viết "Hà Nội và tôi" của tác giả Nguyễn Văn Hậu. Thông tin về cuộc thi xem tại đây.

Bài liên quan
  • Người Hà Nội gốc – cớ sao cứ mãi đi tìm?
    Hai mươi năm rời xa Hà Nội. Hai mươi năm chưa trở lại Hà Nội. Hà Nội tưởng chừng ngủ yên bất chợt ùa về mỗi khi khẽ chạm vào miền ký ức. Hà Nội trong tôi thuở ấy là vần thơ tài hoa của thi sĩ Nguyễn Đình Thi: “Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội/Những phố dài xao xác hơi may/Người ra đi đầu không ngoảnh lại/Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.
(0) Bình luận
  • Nhớ gì khi xa Hà Nội
    Thanh xuân tươi đẹp nhất của tôi gắn bó cùng Hà Nội. Đó là quãng đời sinh viên tươi vui, hồn nhiên được cùng các bạn đồng trang lứa sinh sống và học tập giữa lòng Thủ đô, dưới mái trường Học viện hành chính Quốc gia. Lần đầu tiên bước ra khỏi ngưỡng cửa an toàn của gia đình, Hà Nội đã hiếu khách đón nhận, ôm tôi vào lòng, gieo vào tâm hồn thật nhiều kỉ niệm đặc biệt. Để rồi sau khi ra trường, trở về quê hương công tác, lòng tôi lại bồi hồi xao xuyến mỗi khi nhớ về Hà Nội với những hồi tưởng xuyến xao về quãng đời sinh viên.
  • Tô thắm Hà Nội bốn mùa hoa
    Có lẽ hiếm có Thủ đô của đất nước nào trên thế giới lại có đủ thời tiết đặc trưng của bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, cùng với đó là thiên nhiên tuần hoàn luân chuyển quay vòng bốn mùa như Hà Nội. Để tạo nên diện mạo của Thủ đô, ngoài các công trình kiến trúc, danh lam thắng cảnh… thì còn có cả hệ thống cây xanh và hoa cỏ được trồng khắp các nẻo đường của Hà Nội.
  • Một thoáng Thủ đô, một đời vương vấn
    Tôi đến Thủ đô vào một ngày hè chói chang nắng lửa. Cảm giác nóng nực không ngăn nổi sự hiếu kì trong tôi về mảnh đất ngàn năm văn hiến, về những con người tao nhã, văn minh. Tôi thả hồn phiêu diêu qua từng con phố, lắng tai nghe nhịp thở của Hà thành mà nao nao hồi tưởng về những điều mình đã đọc, đã biết về lịch sử, con người nhân kiệt nơi đây.
  • Giai nhân trong bức ảnh Hà thành bất tử
    Nhân dịp 70 năm giải phóng Thủ đô xin được dâng truyện ngắn này như một nén nhang thơm để tưởng nhớ những nghĩa sĩ anh hùng đã dâng hiến đời mình cho cuộc chiến đấu giải phóng Thủ đô. Trong đó có vợ chồng ông Hai Hiên. Hai Hiên - vị lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa “Hà thành đầu độc” năm 1908. Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại nhưng đã làm chấn động 3 cõi Đông Dương khiến Paris phải run sợ. Ông Hai Hiên lúc đó mới ngoài 30 tuổi, bị thực dân Pháp xử tử chặt đầu, rồi treo thủ cấp ở Cửa Đông thành, nhằm uy hiếp tinh th
  • Nắng thu theo lối tôi về Hà Nội
    7 giờ sáng, đáp xuống nơi Thủ đô, trái tim của cả nước, tôi lại càng tự hào vì là người con Việt Nam. Đã lâu lắm rồi, kể từ ngày tôi xa nơi đây, hân hoan lắm, 7 tiếng trên máy bay đem tôi về quê nhà. 7 năm xa nhà, tôi từ nơi xa học và làm việc trở về nhưng ký ức của tôi và nơi này không thể xóa nhòa. Từ trên máy bay và từ sân bay về trung tâm, tôi càng thấy sự thay đổi rõ rệt của một Hà Nội chuyển mình, hiện đại, văn minh.
  • Cả nhà ước năm mới
    Đêm 30, sau khi tôi và Thạo (con cả của tôi) chuẩn bị xong mâm cúng giao thừa, như đã thống nhất, cả nhà quây quần bên bàn trà để cùng nhau mơ ước.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Khúc ca tình mẫu tử khi đối thoại với thời gian
    Bài thơ “Mẹ” của Đỗ Trung Lai thuộc đề tài quen thuộc nhưng luôn mang sức gợi lớn: đề tài người mẹ. Bài thơ được chọn vào sách giáo khoa Ngữ văn 7 (tập 1, bộ Cánh diều). Xuyên suốt bài thơ là bóng dáng vất vả, tảo tần của người mẹ gắn liền với tình cảm thiêng liêng, sâu đậm mà người con dành cho mẹ. Bằng nét bút tinh tế và nghệ thuật biểu đạt đầy sáng tạo, bài thơ tựa như một khúc ru trầm, nhẹ nhàng mà da diết, chạm đến từng góc khuất trong tâm hồn người đọc.
  • Hà Nội thông qua Nghị quyết quản lý công trình kiến trúc có giá trị và công trình, hạng mục công trình hạ tầng văn hóa, thể thao
    Tại Kỳ họp 19 (kỳ họp chuyên đề) ngày 19/11 của HĐND Thành phố Hà Nội, UBND Thành phố đã trình Dự thảo quy định việc nhượng quyền khai thác, quản lý công trình kiến trúc có giá trị và công trình, hạng mục công trình hạ tầng văn hóa, thể thao thuộc phạm vi quản lý của thành phố (thực hiện điểm a, b khoản 4 Điều 41 Luật Thủ đô). HĐND Thành phố đã xem xét và thông qua Nghị quyết về nội dung này.
  • Cô giáo Lan và những bài học không chỉ đến từ kiến thức
    Trong cuộc sống của mỗi chúng ta, có những khoảnh khắc và những con người đặc biệt mà ta không thể nào quên. Đối với tôi, một trong những người để lại ấn tượng sâu sắc nhất là cô Lan - giáo viên trường Tiểu học Liên Bảo (Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc).
  • Hà Nội phê duyệt đề án vận tải công cộng bằng xe buýt sử dụng năng lượng xanh
    UBND TP Hà Nội vừa có Quyết định số 6004/QD-UBND về việc, phê duyệt “Đề án phát triển hệ thống giao thông vận tải công cộng bằng xe buýt sử dụng điện, năng lượng xanh trên địa bàn Thành phố”.
  • Trường THCS Xuân La: Viết tiếp trang sử vàng truyền thống
    Hòa chung không khí hân hoan của cả nước chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam, ngày 20/11, Trường THCS Xuân La (Tây Hồ, Hà Nội) long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 42 năm ngày Nhà giáo Việt Nam và tuyên dương tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác giảng dạy năm học 2024.
Đừng bỏ lỡ
Ấm áp tình người Hà Nội
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO