Từ đường Thiên lý đến hệ thống đường bộ Việt Nam thời thuộc Pháp

KTĐT| 26/02/2022 17:42

Đến năm 1930, Việt Nam có khoảng 15.000km đường bộ, trong đó có 2.000km rải nhựa. Đó là kết quả của chương trình xây dựng hệ thống đường thuộc địa ở Đông Dương của người Pháp.

Cùng với hệ thống đường sắt, đường thủy, đường không, đường bộ không chỉ giúp cho chương trình khai thác thuộc địa của người Pháp mà còn đặt nền tảng cho phát triển hạ tầng của Việt Nam trong tương lai.

Từ con đường Thiên lý

Lịch sử hệ thống đường bộ Việt Nam có thể tính từ thời Lý, khi bắt đầu có các cung đường gắn với các trạm nghỉ chân nối liền các địa phương chủ yếu để chạy công văn phục vụ cho việc cai trị của nhà nước phong kiến. Đến cuối đời Trần đã có đường Thiên lý, còn gọi là cái quan, nối dài từ Thăng Long đến Tây Đô và sang nhà Hồ thì kéo dài đến Hóa Châu (Bình - Trị - Thiên ngày nay).

Đường Thiên lý đoạn qua Đèo Cả năm 1898.
Đường Thiên lý đoạn qua Đèo Cả năm 1898.

Đến thời Hậu Lê đường Thiên lý kéo dài theo các vùng lãnh thổ mới được thôn tính, đến tận Đồ Bàn (Bình Định). Thời chúa Nguyễn (Phúc Khoát), khoảng năm 1757, đường kéo dài đến Hà Tiên. Nhà Nguyễn, vua Gia Long và vua kế nghiệp là Minh Mạng đã rất nỗ lực kéo dài, mở rộng, gia cố đường Thiên lý. Lúc này, đường thiên lý, còn gọi là đường sứ, nối dài sang tận Nam Vang.

Đường Thiên lý trước đây chỉ là những con đường đất nhỏ, đi qua các làng mạc và những vùng hoang vắng, hiểm trở, rất nhiều thú dữ rình rập nên cách khoảng 15 - 20km lại lập một nhà trạm để là chỗ dừng chân, nghỉ ngơi.

Tuy còn nhỏ hẹp nhưng đường Thiên lý là con đường mở cõi, con đường thống nhất quốc gia, con đường mở mang cho đất nước phát triển. Đó là nền móng đầu tiên cho hệ thống đường bộ Việt Nam sẽ được hình thành dưới thời Pháp thuộc và phát triển cho đến hôm nay

Đến con đường đầu tiên ở Nam Kỳ

Nếu nói đến vai trò của người Pháp với việc hình thành hệ thống đường bộ ở Việt Nam thì trước tiên là việc xây dựng những con đường ở Nam Kỳ từ những thập niên cuối thế kỷ XIX vì đây là vùng thuộc địa đầu tiên của họ ở Đông Dương.

Trước cả yêu cầu khai thác kinh tế, với họ, đầu tiên là nhằm cho việc cơ động di chuyển quân để đối phó với các cuộc nổi dậy. De Bascher, Tỉnh trưởng Chợ Lớn đã gọi “các con lộ nối các đồn trại của quân Pháp đóng trong tỉnh là những con đường chiến lược (routes stratégiques) của địa phương”.

Ngày 24/4/1863, Soái phủ Nam Kỳ ban hành lệnh tái lập đường trạm Sài Gòn - Mỹ Tho, qua các hạt thanh tra Chợ Lớn, Phước Lộc, Mỹ Tho. Con đường bộ được khảo sát và xây dựng sớm nhất từ Sài Gòn về các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long là đoạn về Mỹ Tho được khởi công từ năm 1866, hoàn thành năm 1880. Đoạn đường này tuy thẳng hơn nhưng được thiết lập gần như trùng với đường Thiên lý cũ của nhà Nguyễn, trở thành con đường huyết mạch của Mỹ Tho và cả Nam Kỳ. Ban đầu mặt đường còn hẹp, vừa đủ cho hai ô tô tránh nhau, rải đá xanh, về sau mới tráng nhựa.

Năm 1895, đường Mỹ Tho - Gò Công qua Chợ Gạo, theo quan lộ thời Nguyễn, và cầu Quay bắc qua kênh Bảo Định được xây dựng.

Và sự hình thành hệ thống đường thuộc địa

Nhằm cai trị và thực hiện chương trình khai thác thuộc địa, nâng cấp, xây dựng hệ thống giao thông là đòi hỏi bức thiết đối với người Pháp.

Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer (nhiệm kỳ 1897 - 1902) là người thiết kế và đi đầu trong việc thực hiện chương trình khai thác thuộc địa trong đó có việc xây dựng hệ thống giao thông đường sắt, đường bộ và đường thủy ở Việt Nam.

Ngày 22/3/1897, “Chương trình hành động” - chương trình khai thác thuộc địa đã được chính quyền thực dân Pháp chính thức khởi động với 7 điều khoản, trong đó, Điều khoản 3 là xây dựng thiết bị to lớn cho Đông Dương, như xây dựng hệ thống đường sắt, đường bộ, sông đào, bến cảng… để phục vụ cho việc khai thác thuộc địa và được xem là một trong những điều kiện cần thiết và căn bản, giúp giao thông, vận tải đường bộ Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung có điều kiện phát triển.

Năm 1912, toàn quyền Albert Sarraut (1872 - 1962) ký quyết định xây dựng mạng lưới đường bộ toàn Đông Dương.

Ngày 18/6/1918, Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut, trong nhiệm kỳ thứ hai (1/1917 - 5/1919), tiếp tục ra Nghị định xếp loại các tuyến đường bộ chính Đông Dương và gọi tên lần lượt là đường thuộc địa, đường hàng xứ (riêng đối với Nam Kỳ thành đường hàng tỉnh) và đường thâm nhập. Ngoài ra còn có các con đường ở nông thôn được gọi tên là đường hàng xã.

Đã có một Hội đồng tư vấn cho Toàn quyền quyết định việc xếp hạng này. Pouyanne trong cuốn Các công trình giao thông công chính Đông Dương khẳng định: Đường thuộc địa tương ứng với đường quốc gia bên Pháp có tác động trực tiếp tới kinh tế, chính trị, chiến lược phát triển trên toàn cõi Đông Dương. Đường thuộc địa trở thành trục chính của hệ thống đường bộ Việt Nam nói riêng, Đông Dương nói chung. Việc xây dựng và bảo trì do ngân sách Đông Dương đài thọ.

Theo Nghị định ngày 18/6/1918, toàn Đông Dương có 18 đường thuộc địa, gồm:

1. Đường số 1: Con đường quan trọng nhất, chạy dài từ biên giới Trung Hoa đến biên giới Thái Lan, nối thủ phủ các xứ thuộc Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và Cao Miên. Đường thuộc địa số 1 còn được gọi tên là Đường cái quan (Mandarine).

2. Đường số 2 dài 328km chạy từ Hà Nội đi Hà Giang, qua Phủ Lỗ, Vĩnh Yên, Việt Trì, Phủ Đoan, Tuyên Quang.

3. Đường số 3 dài 231km chạy từ Hà Nội đi Cao Bằng, qua Phủ Lỗ, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Nguyên Bình.

4. Đường số 4 dài 1.500km, chạy từ Móng Cái đi Viêng Chăn, qua Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Luông Phabang.

5. Đường số 5 dài 100km chạy từ Hà Nội đi Hải Phòng qua Hải Dương.

6. Đường số 6 dài 514 km chạy từ Hà Nội đi Viêng Chăn, qua Hòa Bình, Suối Rút, Sầm Nưa.

7. Đường số 7 dài 515 km, chạy từ Luông Phabang đi Vinh, qua Xiêng Khoảng, Mường Xén, Cửa Rào.

8. Đường số 8 (272km) chạy từ Viêng Chăn đi Vinh.

9. Đường số 9 chạy từ Viêng Chăn đi qua Huế, qua Đông Hà.

10. Đường số 10 dài 38km từ Parkxê đi Ubôn (Thái Lan).

11. Đường số 11 dài 107km, từ Tháp Chàm đi Đà Lạt.

12. Đường số 12 dài 178km, từ Phan Thiết đi Đà Lạt.

13. Đường số 13 dài 504km từ Sài Gòn đi Viêng Chăn, qua Lộc Ninh, Kratiê Stung Treng.

14. Đường số 14 dài 646km, từ Sài Gòn đi miền biển Trung Kỳ, qua Lộc Ninh, Đắk Lắk.

15. Đường số 15 dài 97,8km từ Sài Gòn đi Ô Cấp 9, nay là Vũng Tàu.

16. Đường số 16 dài 342km từ Sài Gòn đi Cà Mau, qua Cần Thơ, Sóc Trăng.

17. Đường số 17 chạy từ Phnompenh đến Kampot và Hà Tiên nối thủ đô Cao Miên với biển. Đường số 1 đi vòng về phía Bắc vùng Biển Hồ và dẫn đến khu di tích Angkor.

18. Đường số 1B dài 383km, tiếp nối đường số 1 từ Phnôm Pênh đi Xiêm Riệp, Xixôphôn, qua Ăngco.

(Theo Dương Kinh Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sử, NXB Giáo dục, 2003, trang 380).

Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, để đẩy mạnh quá trình khai thác thuộc địa, đặc biệt là các vùng đất giàu tiềm năng phát triển cây công nghiệp ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, người Pháp đã nâng cấp 4 tuyến đường bộ thành đường thuộc địa, đó là:

- Đường số 19: Quy Nhơn - Pleiku, Bù Đốp với đường nhánh 19 bis (đường 19 kéo dài) đi Kon Tum.

- Đường số 20: Di Linh - Xuân Lộc.

- Đường số 21: Ban Tua - Biên Hòa.

- Đường số 22: Kompong Cham - Gò Dầu Hạ.

Sau khi xếp hạng và khẳng định vai trò là hệ thống đường bộ quan trọng nhất, các tuyến đường thuộc địa liên tục được tu bổ, nâng cấp. Mỗi năm ngân sách đầu tư từ 600.000 đồng đến 1 triệu đồng Đông Dương để tiến hành việc cải tạo, sửa chữa (1 đồng Đông Dương tương đương 2,5 francs - Pháp, năm 1913).

Hệ thống đường thuộc địa Việt Nam thời Pháp thuộc đã được xây dựng hoàn chỉnh trong những năm đầu sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong hệ thống giao thông đường bộ thời kỳ này, đường thuộc địa là loại đường có quy mô lớn nhất, dài nhất và là tuyến đường vận tải chính kết nối các tỉnh, các xứ. Hệ thống đường thuộc địa có sự kế thừa các tuyến đường bộ đã có từ trước, được chỉnh sửa, xây dựng thêm và do người Pháp thiết kế, chỉ đạo thi công.

Hệ thống đường thuộc địa đã ảnh hưởng quan trọng đối với kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội thời Pháp thuộc và nó chính là tiền đề cần thiết và căn bản để trở thành các tuyến đường quốc lộ ngày nay. Từ đường Thiên lý đến đường thuộc địa là hành trình ngàn năm đầy khát vọng, kiêu hãnh nhưng cũng đầy máu và nước mắt của người dân Việt Nam. Nhưng, trước - sau đó vẫn là con đường phát triển của dân tộc Việt Nam.

(0) Bình luận
  • Góc nhìn di sản về những công trình kiến trúc Pháp tại Hà Nội
    Nhân kỷ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam - Pháp, sáng ngày 22/7, Trung tâm Lưu trữ quốc gia I (Hà Nội) phối hợp với Công ty Cổ phần sách Omega Việt Nam (Omega Plus) và Viện Pháp tại Việt Nam tổ chức tọa đàm "Kiến trúc Pháp - Đông Dương - từ góc nhìn di sản". Tọa đàm giúp độc giả hiểu hơn về những di sản, giá trị văn hóa, lịch sử thông qua những câu chuyện về công trình kiến trúc Pháp - Đông Dương nổi tiếng tại Hà Nội.
  • CONSTREXIM - HOD: Dấu ấn trên hành trình vươn ra biển lớn
    Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển nhà Constrexim (Constrexim - Hod) ra đời năm 2007 trong niềm phấn khởi và kỳ vọng của người “thuyền trưởng” Nguyễn Đức Cây cùng các thành viên Công ty. Trải qua chặng đường 15 năm hình thành và phát triển Constrexim - Hod đã từng bước khẳng định được vị thế trong “làng” kinh doanh bất động sản Việt Nam.
  • Những tòa nhà sở hữu kiến trúc đẹp nhất Hà Nội
    Hà Nội hôm nay là một thủ đô văn minh, hiện đại với những tòa nhà mang kiến trúc ấn tượng, độc đáo. Hãy cùng chiêm ngưỡng một thành phố vẫn lẫn mình trong nhịp thở thời gian nhưng đang ngày ngày thay áo mới, sôi động và hiện đại qua những tòa nhà có kiến trúc độc đáo của Thủ đô.
  • MIK Group được vinh danh Top 10 thương hiệu mạnh ngành bất động sản 2022
    Ngày 12/10/2022, tại Khách sạn Melia Hà Nội, trong khuôn khổ Lễ Công bố và vinh danh Thương hiệu Mạnh Việt Nam 2022 do Tạp chí Kinh tế Việt Nam VnEconomy tổ chức, Tập đoàn MIK Group đã được vinh danh là 1 trong 10 thương hiệu mạnh năm 2022 ngành bất động sản.
  • Thư mời tham gia cuộc thi thiết kế biểu tượng và khẩu hiệu Hội Kiến trúc sư Hà Nội
    Hội Kiến trúc sư Hà Nội tổ chức Cuộc thi sáng tác biểu tượng và khẩu hiệu nhằm lựa chọn biểu tượng thể hiện rõ nét nhất tinh thần của các kiến trúc sư Hà Nội
  • Kiến trúc sư Hồ Thiệu Trị: “Nhà hát Opera Hà Nội là sự cộng thêm cho sự phát triển của thủ đô”
    Là một kiến trúc sư nổi tiếng tại Việt Nam và từng là thành viên của hội Kiến trúc sư Pháp, Hồ Thiệu Trị được biết đến nhiều nhất tại Việt Nam với dự án tu bổ Nhà hát Lớn Hà Nội. Dưới đây là những nhìn nhận và chia sẻ của ông về quy hoạch xây dựng nhà hát Opera tại khu vực Hồ Tây.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
  • Hà Nội chuẩn bị tổ chức Lễ hội Sen năm 2024
    Lễ hội Sen Hà Nội năm 2024 dự kiến sẽ được tổ chức trong tháng 7/2024 tại Không gian văn hoá sáng tạo quận Tây Hồ (TP Hà Nội). Sự kiện lần đầu được tổ chức sẽ gồm nhiều hoạt động quảng bá, giới thiệu, tôn vinh nghề trồng sen, các sản phẩm từ sen.
  • Tuổi trẻ huyện Đan Phượng: Dấu ấn trong xây dựng nông thôn mới
    Huyện đoàn Đan Phượng (TP. Hà Nội) luôn coi xung kích tham gia xây dựng nông thôn mới là một trong các nhiệm vụ trọng tâm trong phong trào hành động của Đoàn, xác định: thanh niên phải là lực lượng đi đầu trong thực hiện những khâu khó, việc mới, hướng tới xây dựng những mô hình điểm cụ thể, từ đó tạo sức lan tỏa trong cộng đồng.
  • Độc đáo Lễ hội Mục Đồng tôn vinh trẻ chăn trâu, cầu mong mưa thuận gió hoà
    Lễ hội Mục Đồng làng Phong Lệ (xã Hòa Châu, huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng) độc đáo, duy nhất trong cả nước tôn vinh trẻ chăn trâu và nét đẹp văn hóa.
  • Nhiều hoạt động đặc sắc tại Festival Huế 2024
    Diễn ra từ 7 - 12/6/2024, Tuần lễ Festival nghệ thuật quốc tế Huế 2024, với chủ đề “Di sản văn hóa với hội nhập và phát triển” là điểm nhấn Festival Huế 2024.
  • Khai quật khảo cổ di tích đặc trưng văn hoá Chămpa Tháp đôi Liễu Cốc
    Di tích cấp Quốc gia Tháp đôi Liễu Cốc (thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế) đang được tiến hành khai quật khảo cổ và đất đá được đào, cào từng điểm nhỏ nhất… để tìm hiểu.
  • NSƯT Tân Nhàn được bổ nhiệm Trưởng khoa Thanh nhạc Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam
    NSND Quốc Hưng - Phó Giám đốc phụ trách Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam đã trao quyết định bổ nhiệm và chúc mừng Tiến sĩ âm nhạc, NSƯT Tân Nhàn.
  • Ghi danh Cửu Đỉnh - Hoàng Cung Huế là di sản tư liệu thế giới
    “Những bản đúc nổi trên chín đỉnh đồng ở Hoàng Cung Huế” đã được Ủy ban Chương trình Ký ức Thế giới Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO ghi danh là di sản tư liệu thế giới.
  • Hà Nội: Lễ hội tôn vinh mối tình cao đẹp của Chử Đồng Tử - Tiên Dung
    Lãnh đạo UBND xã Hồng Vân (huyện Thường Tín, TP. Hà Nội) vừa chia sẻ, công tác chuẩn bị tổ chức Lễ hội tình yêu 2024 tại xã Hồng Vân đã hoàn tất. Tối 8/5, tại Quảng trường Thống Nhất (phố đi bộ đêm) xã Hồng Vân, Lễ hội tình yêu 2024 sẽ khai màn.
  • Nhớ chuyến chụp ảnh ở Điện Biên năm ấy
    Thấm thoắt Chiến thắng Điện Biên “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đã qua 70 năm. Ngày ấy tôi còn nhỏ, chưa đủ tuổi tham gia chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Hằng ngày, tôi chỉ thấy người lớn mua và đọc báo Tia sáng đưa tin về các máy bay của hãng “Đa-cô-ta”, máy bay “Bê-vanh-xít” (B.26) tại các sân bay Bạch Mai, Gia Lâm (Hà Nội) và phi trường Cát Bi (Hải Phòng - tên gọi sân bay Cát Bi ngày ấy), máy bay liên tục cất và hạ cánh chở lính nhảy dù, xe tăng, trọng pháo đổ xuống Mường Thanh - Điện Biên Phủ
  • Những kỷ vật biểu tượng của chiến dịch Điện Biên Phủ
    Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” là dấu son chói lọi trong lịch sử kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Giờ đây, chiến tranh đã lùi xa, nhưng giá trị và thông điệp từ những kỷ vật kháng chiến của những năm tháng không thể nào quên sẽ còn mãi. Nó gợi nhớ một thời đạn bom, hy sinh thầm lặng, những cống hiến, đóng góp lớn lao của các thế hệ cha anh vì độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc.
Từ đường Thiên lý đến hệ thống đường bộ Việt Nam thời thuộc Pháp
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO