Văn hóa – Di sản

Trần Nguyên Đán – nhà văn hóa kiệt xuất thời vãn Trần

Nguyễn Phương Thảo 25/03/2024 11:40

Trần Nguyên Đán (1325 - 1390), là nhà chính trị, nhà thơ; hiệu là Băng Hồ. Dưới triều Trần, ông từng giữ nhiều chức vụ trọng yếu. Đời vua Trần Dụ Tông, ông giữ chức Đại phu Ngự sử đài (làm Đại phu ở Đài ngự sử), chuyên việc can gián. Đời vua Trần Nghệ Tông, ông cùng nhiều tướng lĩnh khác có công dẹp Dương Nhật Lễ, được phong chức Tư đồ.

nguyen-dan.jpg
Đền thờ Tư đồ Trần Nguyên Đán.

Đến năm 1371, ông lại được bổ nhiệm chức Tư đồ phụ chính, tước Chương túc Quốc thượng hầu kiêm quân quản trấn Quảng Oai, phụ trách việc bang giao với các nước. Mùa thu năm 1385, ông xin về hưu trí ở Côn Sơn, sống cuộc đời nhàn dật cho tới lúc mất. Có thể thấy, ở chức vụ nào ông cũng làm tròn trách nhiệm và phận vị của mình. Bên cạnh những đóng góp không nhỏ về mặt chính trị, ngoại giao, Trần Nguyên Đán còn thể hiện tài năng, tầm tư tưởng và nỗi niềm riêng ở lĩnh vực văn hóa, sáng tác thi ca. Ông là người thông kinh bác sử, hiểu sâu sắc nghĩa lí Nho, Phật, Đạo. Sống trong cảnh đất nước không mấy thanh bình, nhất là lúc triều Trần suy tàn, Trần Nguyên Đán gần như người mất phương hướng. Ông hy vọng vào lớp nho sĩ trẻ như Nguyễn Ứng Long, Nguyễn Hán Anh... nhưng lại không dám đề cử họ với triều đình. Là trọng thần của vương triều Trần nên ông lo sợ binh quyền phe Hồ Quý Ly làm hại gia tộc mình, cuối cùng đành chấp nhận kết thông gia với Hồ Quý Ly để giữ yên ổn cho con cháu. Ông qua đời khi vương triều Trần đang bước vào giai đoạn suy vong.

Trần Nguyên Đán là bậc thức giả thấu hiểu vận nước, cõi đời và tình người. Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại sự kiện ông trí sĩ, lui về Côn Sơn, gửi cho các bạn làm quan bài thơ, trong đó chỉ còn giữ lại được hai câu:

Kim cổ hưng vong chân khả giám,

Chư cộng hà nhẫn gián thư hy?

(Con mắt xưa nay gương đã rõ,

Các ông sao nỡ vắng thư can?)

Ông từng vượt qua những tập tục, qui định chặt chẽ của vương tộc nhà Trần và dám chấp nhận hai chàng rể ngoại tộc Nguyễn Ứng Long và Nguyễn Hán Anh. Khi thấy hai gia sư trẻ sợ tội trốn đi, Trần Nguyên Đán nói: “Vận nước sắp hết, biết đâu chẳng phải là trời xui nên như thế, vị tất không phải là phúc”. Bèn cho gọi hai chàng về bảo rằng: “Người xưa cũng có chuyện này. Các ngươi không thấy chuyện Văn Quân với Tương Như hay sao? Nếu hai người làm được như Tương Như, truyền lại danh tiếng cho đời sau thì đó là điều mong muốn của ta”. Hai chàng cảm ơn sâu nặng, chăm chỉ học hành. Đến khi thi, cả hai đều đỗ. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông nói: “Bọn chúng có vợ giàu sang. Như thế là kẻ dưới dám phạm thượng, bỏ không dùng”. Sau Nguyễn Hán Anh làm quan đến chức Chuyển vận sứ. Ứng Long đến thời nhà Hồ đổi tên là Phi Khanh, cùng đỗ Thái học sinh với con là Nguyễn Trãi và đều được bổ làm quan.

Trong kho sách Hán Nôm, có một số nguồn tài liệu xa gần đề cập đến thân thế và sự nghiệp Trần Nguyên Đán như Thanh Hư động kí (1384) của Nguyễn Phi Khanh; Côn Sơn Thanh Hư động bi minh, Đề Tư đồ Trần Nguyên Đán từ đường của Trần Nghệ Tông; Băng Hồ di sự lục (1428) của Nguyễn Trãi; Đại Việt sử kí toàn thư (1697), Công dư tiệp kí (1755) của Vũ Phương Đề; Toàn Việt thi lục (1768) của Lê Quí Đôn; Ngự chế Việt sử tổng vịnh (1874) của Tự Đức; Việt Nam quốc sử khảo (1908) của Phan Bội Châu... Chung qui, trước tác của Trần Nguyên Đán có Băng Hồ ngọc hác tập và Bách thế thông kỷ nhưng đến nay hầu hết đã thất truyền. Hiện chỉ còn 51 bài thơ chép trong Việt âm thi tập và Toàn Việt thi lục...

Trần Nguyên Đán viết thơ chủ yếu để bày tỏ tâm sự, phần lớn có xu hướng chán nản, lo đời, thương bản thân là người tài mà “sinh nhầm thế kỉ”. Trần Nguyên Đán sống trong thời kì khủng hoảng của lịch sử Đại Việt. Người dân thời bấy giờ phải chịu cuộc sống cơ cực, lầm than. Cảnh bão lụt, hạn hán, mất mùa thường xuyên diễn ra. Lụt lội lớn, vỡ đê vào các năm 1336, 1348, 1351-1352,...; hạn hán, mất mùa vào năm 1343, 1348, 1355... gây tổn thất rất nhiều cho đời sống dân chúng. Trong cơn khủng hoảng này, nhà Trần lại cũng không mấy để ý đến các chính sách nông nghiệp, khuyến nông và ít chăm lo đến vấn đề đê điều, thủy lợi. Là người cương trực, thẳng thắn, lại vốn thương dân, chăm dân, Trần Nguyên Đán đã phải sống, chứng kiến và bất lực trước tình cảnh của dân chúng. Cho nên những bài thơ của ông sáng tác thường mang nặng nỗi niềm cảm thương, đau xót trước tình cảnh khốn đốn của đất nước và chúng dân :

Niên lai hạ hạn hựu thu lâm,

Hoà cảo miêu thương hại chuyển thâm.

Tam vạn quyển thư vô dụng xứ,

Bạch đầu huống phụ ái dân tâm.

(Nhâm Dần niên lục nguyệt tác)

(Năm nay mùa hè bị hạn, mùa thu lại bị lụt,

Lúa khô mạ thối, tai hại càng nhiều.

Đọc ba vạn quyển sách mà thành vô dụng,

Bạc đầu luống phụ lòng thương dân)

(Làm vào tháng sáu năm Nhâm Dần)

Hoặc:

Vạn quốc dân sinh phí đinh ngư,

Sóc Yên đông Biện dĩ khâu khu.

(Dạ qui chu trung tác)

(Nhân dân muôn nước như cá trong vạc nước sôi,

Đất Yên phương Bắc, đất Biện phương Đông đã thành gò đống)

(Làm trong thuyền lúc ban đêm đi về)

Không những phải chứng kiến cảnh dân chúng lầm than, Tư đồ Trần Nguyên Đán còn chứng kiến tận mắt cảnh mua quan bán tước diễn ra nhan nhản mà “lực bất tòng tâm”. Bên cạnh đó, ở thời kì này, giai cấp thống trị nhà Trần đua nhau đem ruộng đất, nô tì cống vào việc xây dựng chùa chiền. Dân đen thì thiếu thốn đủ thứ, vậy mà những kẻ có địa vị, có tiền lại bàng quan, thờ ơ... Trần Nguyên Đán đau xót kể nỗi bất bình của mình trong thơ:

Nhất tiếu vô ưu trang thất bảo,

Long xà đôi trúc dịch dân lao.

(Bảo Nghiêm tháp)

(Cười cho sự vô lo, đem thất bảo điểm tô lên tháp,

Chạm trổ rồng rắn làm dân phải mệt nhọc)

(Tháp Bảo Nghiêm)

Đứng trước hoàn cảnh đó, Trần Nguyên Đán luôn mơ về một xã hội công bình, có nhiều người tài năng, có đạo đức để gánh vác những trọng trách lớn của đất nước. Ông mong sao bậc vua chúa biết lắng nghe, biết trọng dụng nhân tài và người trung hiếu để họ “phò nghiêng đỡ lệnh”, cống hiến tài năng, xây dựng một đất nước mà ở đó, khắp thôn cùng xóm vắng người dân vui cảnh ấm no, thái bình. Trần Nguyên Đán thừa nhận mình đã thuộc lớp người thất thế, buộc phải lui về “cày nhàn câu vắng” và ước mong một sự đổi thay, một lớp người mới sẽ tiếp nối, vực lại giang sơn:

Sóc phong tế vũ chuyển thê lương,

Khách xá tiêu tiêu khách tử trường.

Ly hạ u tư tồn vãn tiết,

Khê biên tố diệm thí tân trang.

Hồ nhi vị khoản Hoa Môn tái,

Bùi lão tư qui Lục Dã đường.

Điếu nguyệt canh vân hà thái tảo?

Thiên chung vạn vũ Tử vi lang.

(Ký tặng Nhị Khê Kiểm chính Nguyễn Ứng Long)

Nguyễn Đức Vân dịch thơ:

Mưa phùn gió Bắc cảnh thê lương,

Quán trọ đìu hiu khách vấn vương.

Dưới giậu vẻ thanh, còn tiết muộn,

Bên khe hoa trắng, nức mùi hương.

Hồ nhi chưa đến Hoa Môn tái,

Bùi lão ưng về Lục Dã đường.

Câu nguyệt cày mây sao sớm thế?

Muôn chung nghìn tứ Tử vi lang.

(Gửi tặng Kiểm chính Nguyễn Ứng Long ở Nhị Khê)

Trong bài thơ này, Trần Nguyên Đán nhận rằng mình như khí tiết hoa cúc quân tử đã về già và như ông Bùi Độ đời Đường đã hưu quan ở Lục Dã; còn người con rể như hoa mai hiền sĩ tuổi trẻ, xứng đáng nhận niềm tin và gánh vác trọng trách trong triều. Mở rộng hơn, Trần Nguyên Đán bày tỏ nguyện vọng về việc đào tạo, trọng dụng người hiền tài:

3

Nhất chú ngự hương thông để khuyết,

Nguyện văn trung hiếu Trạng nguyên danh.

(Canh thế cục chư sinh xướng thù giai vận)

(Đốt nén hương vua thấu đến cửa thượng đế,

Mong được nghe tên vị Trạng nguyên trung hiếu)

(Họa vần bài thơ xướng họa của các thí sinh ở trường thi)

Sống giữa nơi kinh thành, Trần nguyên Đán cảm nhận rõ sự lỗi thời, bất lực của mình và thấy việc mình ôm chức quan cũng chỉ là hư danh, hư vị không giúp được gì cho đời:

Trung tâm nhận đắc bản lai không,

Tiện trữ hư không tại cá trung.

Thiên hạ hữu vi giai chính lý,

Nhân gian vô xứ bất xuân phong.

Thanh trà hảo tửu cung giai khách,

Sấu trúc sơ mai bạn lão ông.

Lãm kính tự tàm duy nhất sự,

Lực phù suy bệnh tác Tam công.

(Ngẫu đề)

Trần Lê Sáng dịch thơ:

Hỏi lòng biết được vốn là không,

Nên mặc hư không cứ ở trong.

Thiên hạ có duyên đều chính lý,

Nhân gian đâu chỗ chẳng xuân phong.

Trà thơm, rượu ngọt mời tân khách,

Trúc thẳng, mai gầy đón lão ông.

Ngắm bóng thẹn lòng duy một việc,

Ốm hèn còn gắng giữ Tam công.

Nhìn rộng ra, có lẽ một bộ phận quan lại thời Trần Nguyên Đán là những người không có chữ, đúng hơn là không nhiều chữ. Họ làm quan là vì có tiền của, cậy thần cậy thế, mua được quan bán được tước. Cho nên quan Tư đồ mong ước các tướng văn, tướng võ trong triều ít nhiều cũng phải biết chữ. Người có chữ ắt hẳn là người biết đến trung hiếu, lòng vị tha, đức hy sinh, độ lượng với dân chúng và triều đình. Ông mong ước:

Đấu tướng tòng thần giai thức tự,

Lại viên tượng thị diệc năng thi.

(Đề quan Lỗ bạ thi tập hậu)

(Tướng võ, quan hầu đều biết chữ,

Thư lại, thợ thuyền cũng làm thơ)

(Đề sau tập thơ quan Lỗ bộ)

Tâm tình này ở Trần Nguyên Đán cho thấy ông là người cương trực, có lòng nhân ái. Ông dám phê phán, phản biện, lên án và nói thẳng những mặt trái, những điều bất công, tệ hại đang diễn ra trong xã hội đương thời. Đi xa hơn, bất lực trước thời cuộc, có lúc Trần Nguyên Đán tìm đến rượu để giải khuây:

Nhất bôi cưỡng tuý thù giai tiết,

Bất quản liêm hà bạch lộ linh.

(Cửu nguyệt hữu nhân lai phỏng đồng tác)

(Một chén gượng say để đáp lại tiết vui,

Chẳng ngại gì lau sậy có móc trắng rơi)

(Tháng chín có người đến thăm cùng làm thơ)

Tuy nhiên, việc Trần Nguyên Đán tìm đến rượu trước sau vẫn chỉ là điều bất đắc dĩ, cực chẳng đã. Bởi lẽ ông chẳng mấy hứng thú với rượu, tìm đến nhất bôi (một chén) trong tình thế cưỡng (gượng) và rồi ngay cả cái say cũng lại là cưỡng tủy (gượng say). Ông gượng say và cũng gượng vui, biết rằng có uống say cũng chẳng thể vui được.

Hẳn cũng vì bất mãn với thời cuộc nên đoạn cuối đời ông về Côn Sơn, chọn cuộc sống nhàn dật để được thỏa chí, thỏa lòng. Trong niềm tâm sự sâu xa, ông bộc lộ sự bất lực trước thời cuộc, đổ vỡ niềm tin vào lý tưởng Nho giáo cũng như với chính bản thân mình:

Bạch nhật thăng thiên dị,

Trí quân Nghiêu Thuấn nạn.

Trần ai lục thập tải,

Hồi thủ quý hoàng quan.

(Đề Huyền Thiên quán)

Bản dịch của Hoàng Việt thi văn tuyển:

Lên trời còn sự dễ,

Giúp chúa thật điều gay.

Sáu chục năm lẩn thẩn,

Trông người hổ thẹn thay.

(Đề quán Huyền Thiên)

Ở Trần Nguyên Đán, bên cạnh chữ “tài” còn có chữ “tâm”, bên cạnh cá nhân mình còn có vương triều, quốc gia, dân tộc. Người đời sau luôn tôn vinh, kính nể nhân tài và nhân cách của vị Tư đồ đời Trần này. Nguyễn Trãi cũng từng viết và tự hào ngợi ca về ông ngoại Trần Nguyên Đán của mình: “Giữ vững cơn lay động, gỡ mối sau buổi rối ren, trong khoảng mấy năm, trong nước yên lặng, người ta khen là hiền tướng. Dù là trẻ con, lính tráng, chẳng ai là không biết tiếng” (Băng Hồ di sự lục, 1428. Bản dịch, 1969)../.

Theo Danh nhân Thăng Long - Hà Nội

Bài liên quan
(0) Bình luận
  • Giang Văn Minh và những giai thoại rạng danh xứ Đoài
    Nằm dưới chân núi Tổ, vùng đất cổ Đường Lâm, xứ Đoài không chỉ nổi tiếng là nơi sinh ra vua Phùng Hưng (cuối thế kỷ thứ VIII) và vua Ngô Quyền (thế kỷ thứ X) mà còn được biết đến là quê hương của Thám hoa Giang Văn Minh - một nhân vật lỗi lạc trong lịch sử ngoại giao của nước nhà, hồi cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII.
  • Tiếp thêm sức sống cho nghề truyền thống Thủ đô
    Là địa phương đứng đầu cả nước về số lượng các làng nghề truyền thống, các nghệ nhân và người làm nghề truyền thống Hà Nội đang không ngừng sáng tạo trong công tác gìn giữ, bảo tồn các làng nghề. Sự sáng tạo không chỉ mang lại một diện mạo mới, một sức sống mới cho các làng nghề mà còn gợi mở những không gian trải nghiệm văn hóa mới cho người dân Thủ đô và du khách.
  • Khởi công xây dựng đền thờ Đức vua Ngô Quyền
    Sáng 26/6, Tổng Bí thư Tô Lâm dự Lễ khởi công dự án xây dựng đền thờ Đức vua Ngô Quyền tại Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Cổ Loa (xã Cổ Loa, huyện Đông Anh).
  • Trưng bày “Báo chí Huế trong dòng chảy Báo chí Cách mạng Việt Nam”
    Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, Hội Nhà báo Thành phố Huế phối hợp Ban Tuyên giáo và Dân vận Thành uỷ, Sở Văn hoá Thể thao tổ chức Triển lãm trưng bày “Báo chí Huế trong dòng chảy Báo chí cách mạng Việt Nam”.
  • Hà Nội: Thêm 9 di tích được xếp hạng cấp thành phố
    Ngày 10/6, UBND Thành phố Hà Nội ban hành Quyết định số 2859/QĐ-UBND về việc xếp hạng di tích lịch sử-văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
  • Công nhận hội Lim ở Bắc Ninh là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
    Hội Lim là nơi các giá trị lịch sử, tín ngưỡng và đặc biệt là Dân ca Quan họ Bắc Ninh được thực hành, bảo tồn và lan tỏa, thể hiện tính gắn kết bền chặt và tinh tế giữa các làng Quan họ.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Ra mắt sách tranh song ngữ “Kể chuyện Bác Hồ”
    Nhân kỷ niệm 100 năm thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (6/1925 – 6/2025), Nhà xuất bản Kim Đồng giới thiệu tới bạn đọc cuốn sách tranh "Kể chuyện Bác Hồ", ấn bản song ngữ Việt – Trung.
  • Chuyện kể về Chúa Nguyễn và các giai thoại mở đất phương Nam
    Trong hành trình mở cõi về phương Nam của dân tộc Việt Nam, các chúa Nguyễn hiện lên như những nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa, với các quyết sách chiến lược và nghệ thuật bang giao khôn khéo, đặc biệt trong quan hệ với triều đình Chân Lạp. Cuốn sách “Chúa Nguyễn và các giai thoại mở đất phương Nam” của nhà giáo, nhà nghiên cứu sử học Nguyễn Hữu Hiếu, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật phát hành tháng 6/2025, là một công trình giàu tư liệu và cảm hứng góp phần tái hiện sinh động giai đoạn lịch sử đặc biệt ấy.
  • Nhìn lại nửa thế kỷ văn học nghệ thuật Việt Nam
    Ngày 27/6/2025, tại Hà Nội, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) tổ chức hội thảo khoa học “Nhìn lại sự vận động, phát triển của VHNT Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975 – 30/4/2025)”. Với 33 tham luận cùng nhiều ý kiến trao đổi sôi nổi, hội thảo là dịp tổng kết quá trình phát triển của VHNT Việt Nam trong bối cảnh đất nước thống nhất, đổi mới và hội nhập, từ đó đưa ra các đề xuất nhằm phát triển VHNT trở thành thành tố quan trọng của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
  • Huyện Thường Tín đón nhận danh hiệu đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao
    Sáng 28/6, huyện Thường Tín (Hà Nội) tổ chức Lễ công bố và đón nhận danh hiệu huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao năm 2024. Sau 4 năm nỗ lực, huyện đã đạt nhiều kết quả nổi bật, kinh tế-xã hội chuyển biến tích cực, hạ tầng ngày càng khang trang, đời sống người dân được nâng cao.
  • Tiêu dùng bền vững hướng đến kỷ nguyên xanh
    Tối 27-6, Chương trình thúc đẩy sản xuất – tiêu dùng bền vững 2025 chính thức khai mạc tại Hà Nội với chủ đề “Tiêu dùng bền vững hướng đến kỷ nguyên xanh”.
Đừng bỏ lỡ
  • 9 tựa sách hay trong Tủ sách gia đình của Nhã Nam
    Ngày Gia đình Việt Nam 28/6 là dịp để mỗi người lắng lại, cảm nhận rõ hơn giá trị của tình thân, của những khoảnh khắc bên nhau giản dị mà quý giá. Trong nhịp sống hiện đại, một trong những cách đẹp đẽ để giữ gìn và bồi đắp sợi dây gắn kết gia đình chính là cùng nhau đọc sách – những cuốn sách đầy yêu thương, sẻ chia và thấu cảm. Hiểu được điều đó, Nhã Nam đã kỳ công tuyển chọn và xây dựng Tủ sách Gia đình. Đây là những cuốn sách giúp nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ, lan tỏa giá trị yêu thương trong mỗi mái ấm, để mỗi em bé đều được lớn lên trong vòng tay chan chứa hạnh phúc của gia đình.
  • Phu nhân Tổng Bí thư và Tổng Giám đốc UNESCO tham dự triển lãm ảnh "Chúng tôi có thể"
    Các tác phẩm là sản phẩm tiêu biểu của dự án “Chúng tôi CÓ THỂ” – sáng kiến phối hợp giữa UNESCO và Bộ Giáo dục và Đào tạo, hướng đến mục tiêu trao quyền học tập và phát triển toàn diện cho phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số tại các vùng khó khăn.
  • Người đẹp Phú Yên Hà Trúc Linh đăng quang Hoa hậu Việt Nam 2024
    Hà Trúc Linh - 21 tuổi, quê Phú Yên, sinh viên Đại học Tài chính Marketing TP HCM - vượt top 24 để đoạt vương miện Hoa hậu Việt Nam 2024.
  • Ra mắt sách “Phụ nữ bàn về vấn đề phụ nữ trên Phụ nữ tân văn"
    Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam vừa ra mắt cuốn sách "Phụ nữ bàn về vấn đề phụ nữ trên Phụ nữ tân văn", tuyển chọn các bài viết tiêu biểu của nữ trí thức trên tuần báo Phụ nữ tân văn – một diễn đàn quan trọng trong phong trào nữ quyền Việt Nam đầu thế kỷ XX. Ấn phẩm dày 600 trang, do Đoàn Ánh Dương biên soạn và giới thiệu, được phát hành trên toàn quốc từ tháng 6/2025.
  • Hà Nội nêu cao tinh thần “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”
    Tại kỳ họp thứ 24 (kỳ họp chuyên đề) diễn ra sáng 27/6, HĐND Thành phố Hà Nội khóa XVI, nhiệm kỳ 2021-2026 đã thông qua Nghị quyết về phân cấp quản lý nhà nước một số lĩnh vực kinh tế - xã hội trên địa bàn Thành phố, bảo đảm thực hiện đúng phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”.
  • Phát động cuộc thi ảnh báo chí 'Việt Nam trên hành trình đổi mới’
    Cuộc thi ảnh báo chí “Việt Nam trên hành trình đổi mới” do Báo Nhân Dân phối hợp Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam tổ chức nhằm tuyên truyền, quảng bá hình ảnh đất nước, con người, những thành tựu về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa cũng như vị thế của Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế trong quá trình 40 năm đổi mới.
  • Hà Nội sửa đổi, bổ sung quy định phân cấp nguồn thu, chi để mô hình chính quyền địa phương 2 cấp hoạt động hiệu quả
    Để có cơ sở điều chỉnh, giao dự toán ngân sách năm 2025 cho các xã, phường sau sắp xếp đảm bảo nguồn ngân sách để thực hiện các nhiệm vụ được giao từ ngày 1/7/2025, HĐND Thành phố Hà Nội ngày 27/6 đã thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số nội dung quy định tại Nghị quyết số 22/2022/NQ-HĐND ngày 08/12/2022 về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách, định mức phân bổ ngân sách Thành phố và tỷ lệ phần trăm phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách giai đoạn 2023-2025.
  • Trình chiếu loạt phim đỉnh cao của Hàn Quốc tại Liên hoan phim châu Á Đà Nẵng lần 3
    Liên hoan phim châu Á Đà Nẵng lần 3 diễn ra từ ngày 29/6 – 5/7 sẽ có nhiều hoạt động hấp dẫn, đặc biệt khán giả sẽ có cơ hội gặp gỡ nhiều diễn viên Hàn Quốc.
  • Festival Nông sản Hà Nội: Thúc đẩy mô hình canh tác, chế biến và tiêu dùng nông sản gắn với văn hóa – du lịch
    Từ ngày 26 - 29/6/2025, tại quận Tây Hồ, Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội phối hợp UBND quận Tây Hồ tổ chức Festival Nông sản Hà Nội lần thứ 4 – sự kiện xúc tiến thương mại nông nghiệp thường niên đang ngày càng khẳng định vị thế là điểm hẹn lớn của người tiêu dùng và các nhà sản xuất nông sản trên cả nước.
  • [Podcast] Đình Mễ Trì Thượng – Nơi lưu giữ những lớp trầm tích văn hóa Hà Nội
    Trong hàng ngàn di tích lịch sử văn hóa của Thủ đô ngàn năm văn hiến, thì đình Mễ Trì Thượng là ngôi đình cổ kính bậc nhất. Ngôi đình này nằm trên gò Quy Sơn (núi Rùa), thuộc làng Mễ Trì Thượng (tên Nôm là Kẻ Mẩy). Mễ Trì Thượng không chỉ mang dáng dấp kiến trúc cổ đặc trưng Bắc Bộ, mà ngôi đình này còn là nơi lưu giữ những lớp trầm tích văn hóa của một Hà Nội đang chuyển mình theo vòng quay thời gian.
Trần Nguyên Đán – nhà văn hóa kiệt xuất thời vãn Trần
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO