Lý luận - phê bình

Trái đất ngủ mơ mùa thu thay áo

Lời bình của Bích Hạnh 09/11/2023 13:56

Bài thơ “Thu cảm” của nhà thơ Trương Anh Tú không có từ nào chỉ sắc màu của lá mà sao tràn ngập thu vàng và thật Thu đến thế. Đi tìm và lý giải cho cảm nhận này, ta bước theo từng nhịp bước mùa thu - nhịp bước thời gian và thấy chủ thể con người - thi nhân với tâm tư, nhân sinh hiển lộ trong bài thơ.

thieu-nu.jpg

Bài thơ “Thu cảm” của nhà thơ Trương Anh Tú không có từ nào chỉ sắc màu của lá mà sao tràn ngập thu vàng và thật Thu đến thế.Đi tìm và lý giải cho cảm nhận này, ta bước theo từng nhịp bước mùa thu - nhịp bước thời gian và thấy chủ thể con người - thi nhân với tâm tư, nhân sinh hiển lộ trong bài thơ.

Trái đất ngủ mơ

mùa thu thay áo

Chỉ với hai câu thơ mà nhà thơ đã có thể dẫn người đọc vào một không gian và thời gian đặc biệt độc đáo, đầy quyến rũ, được đặt tên là Mùa Thu! Hẳn rồi, chỉ có mùa thu trái đất mới “ngủ mơ” bởi làn sương bảng lảng, bởi sắc lá mơ màng, bởi không gian huyền ảo, dịu nhẹ như trong mơ. Mùa thu hiện lên trong câu thơ như bóng dáng yêu kiều của một nàng công chúa. “Nàng” trút bỏ chiếc áo xanh mùa hè, khoác lên mình chiếc áo mộng mơ của mùa thu.

Trong khoảnh khắc, vẻ đẹp của nàng thay đổi đến ngỡ ngàng, mê hoặc. Những câu thơ như một phép màu, phác vẽ thật đẹp, thật duyên dáng và xao xuyến. Vẻ đẹp của thiên nhiên sóng đôi trong trường liên tưởng với dáng vẻ, hành động gợi cảm của con người. Cây trút lá như nàng công chúa trút xiêm y; cả hai hóa thân vào nhau, tương hỗ bổ sung cho nhau, đồng hiện trong một bức tranh thơ hiện thực huyền ảo, say đắm:

Em bồng bềnh

nét vẽ đất trời”.

“Em” ở đây không chủ ý là em cụ thể nào, bởi em là “nét vẽ đất trời”; em là thiên nhiên, là cái đẹp, thực mà mộng, mộng mà thực. Nhưng sao vẫn thấy phảng phất một “nàng tiên”, một dáng hình phụ nữ? Ở đây nhà thơ đã tạo ra một “khoảng trống” thật đắt giá để người đọc cùng thăng hoa, cùng vẽ vào bức tranh tưởng tượng của cái đẹp.

“Anh” - cái tôi bản thể của tác giả - lúc này đã không thể không bật thốt lên tiếng nói tâm hồn: “Anh như lá/ nghe mùa đang gọi”. Anh đã nghe thấy tiếng nói của mùa, tiếng gọi, hơi thở của thiên nhiên, của “em” - bằng tình yêu và trái tim mẫn cảm. Tự lúc nào anh hóa thân vào thiên nhiên, anh thành chiếc lá để chuyển động cùng nhịp thời gian, để thấu cảm hết vẻ đẹp của mùa thu. Anh hòa nhịp lòng mình vào bản hòa tấu đất trời, cùng sắc lá bay theo mùa gọi, đó là vẻ đẹp của sự cống hiến hết mình, cháy hết mình, đến tận cùng.

Say đắm, đồng điệu với thiên nhiên, nhưng là cái đắm say của một bản thể chủ động, khi câu thơ bỗng neo lại như ẩn chứa một nỗi niềm: “Giữ lại riêng mình chút nắng thôi”.

Đến đây, chất “thu cảm” của bài thơ đã vượt khuôn khổ những cảm xúc mộng mơ, lãng mạn trữ tình thông thường để hướng đến tâm thế, ưu tư của một thi nhân - kẻ sĩ. Bài thơ bay lên, bay qua bức tranh mùa thu, bay qua những mộng mơ, xao xuyến để bước vào tâm thức, bước vào thế giới tinh thần cao đẹp của con người. Như một cảm nhận của nhà giáo Nguyễn Cảnh Thụy:

“Anh như lá nghe mùa đang gọi

Giữ lại riêng mình chút nắng thôi.

Câu thơ rất mới, rất lạ, chênh vênh nỗi niềm... trong triết lý hiện sinh của một bản thể ý thức, vừa chủ động hiến dâng vừa cô đơn!”.

Mùa thu của thiên nhiên, của cuộc đời con người là độ chín cao nhất, nhưng cũng là mùa chạnh lòng bâng khuâng về những gì rực rỡ nhất đã và đang qua đi. Thiên nhiên, con người nói chung đều phải vận động theo quy luật thời gian, chỉ có “anh” - một chủ thể thi sĩ, là có “quyền năng” giữ lại được vẻ đẹp của mùa thu vĩnh cửu qua ngôn ngữ thi ca. “Chút nắng” ấy tưởng nhỏ nhoi, khiêm lặng, nhưng đó lại chính là ánh sáng ngọn lửa tâm hồn thi nhân không bao giờ tàn lụi. Khi đã “giữ lại riêng mình” là đồng thời cũng lựa chọn nỗi cô đơn như một giá trị, với sứ mệnh sáng tạo của người nghệ sĩ.

Điểm đặc biệt là bài thơ không có một từ nào miêu tả sắc vàng, nhưng đến chữ “nắng”, chỉ một chữ “nắng” trong câu thơ cuối đã khiến bài thơ bừng sáng, và người đọc cũng như bừng tỉnh để nhận thấy một triết lý nhân sinh.

Mùa thu lúc này đẹp quá, sắc vàng sắc đỏ của lá ùa về, tràn ngập tâm cảm, vì chỉ có một mùa vàng rực rỡ như thế mới có thể đọng “nắng” lại trong “anh” khi mùa thu đi qua. Hay nói cách khác, chỉ cái đẹp mới là giá trị còn lại sau tất cả những lụi tàn. Những vòm lá thu rực rỡ mà A. Camus từng định nghĩa “Mùa thu là mùa xuân thứ hai khi mỗi chiếc lá là một đoá hoa” chợt bừng lên trong trí tưởng của mọi người. Nếu mùa xuân là mùa của sinh sôi nảy nở, mùa hạ là mùa xanh biếc nồng nàn, mùa đông trơ trọi vắng lặng và ấp ủ, thì mùa thu là mùa của vẻ đẹp tận hiến. “Nắng” này không phải chỉ là ánh nắng mặt trời, mà là nắng trong hồn thu, trong sắc lá, trong mùa; “nắng” là hiện thân của vẻ đẹp tâm hồn, của ngọn lửa thi sĩ không bao giờ lụi tắt.

Ngoài tính triết lý, bài thơ “Thu cảm” vẫn thể hiện thế mạnh của thơ Trương Anh Tú là giàu chất nhạc, từ ngữ chắt lọc, thi ảnh độc đáo; những câu thơ tự do nhưng mang nhịp điệu, tiết tấu hài hòa đã tạo nên chất “thu cảm” bâng khuâng, thiết tha, lắng đọng. Mùa thu dẫu có triệu triệu lần đi qua Trái Đất này, đời người có theo thời gian trôi như lá bay theo gió, thì “chút nắng” ấy vẫn luôn mãi là năng lượng để ta say đắm với cuộc đời./.

Thu cảm

Trái đất ngủ mơ

mùa thu thay áo

Em bồng bềnh

nét vẽ đất trời

Anh như lá

nghe mùa đang gọi

Giữ lại riêng mình chút nắng thôi.

(Trích trong tập thơ “Những mùa hoa anh nói” - Trương Anh Tú, Nxb Hội Nhà văn, 2018).

Bài liên quan
  • Trò chuyện với nhà nghiên cứu Nhật Chiêu về thơ haiku
    Tối ngày 21/10/2023, những người yêu thơ haiku tại Hà Nội đã có cuộc giao lưu, trò chuyện với nhà nghiên cứu Nhật Chiêu với chủ đề “Haiku tương thoại”. Cuộc trò chuyện do nhóm Ô Thước/ Authors tổ chức tại không gian cà phê sách Tổ Chim Xanh, Hà Nội.
(0) Bình luận
  • Hai thể thơ mới namkau và 1-2-3 trong lịch sử phát triển của các thể thơ dân tộc
    Khoảng mươi năm gần đây, trên thi đàn Việt xuất hiện hai thể thơ mới: namkau và 1-2-3. Là sản phẩm của thế kỷ công nghệ số, những thể thơ này còn đang ở thời kỳ phôi thai trứng nước.
  • Văn Cao, mùa bình thường...
    Văn Cao là một người tài hoa. Gọi ông là nhạc sĩ, thi sĩ hay họa sĩ đều được. Song tôi nghĩ, gọi ông là nhạc sĩ vẫn chuẩn xác hơn cả, bởi đó là điểm khởi đầu cũng là lĩnh vực ông bộc lộ tài năng nhất và cũng thành công nhất. Nhưng hãy khoan bàn về điều này, tôi muốn phác họa đôi nét về con người Văn Cao qua ấn tượng của mình sau hai lần gặp gỡ...
  • GS.TS Kiều Thu Hoạch: Người cần mẫn nghiên cứu văn hóa dân gian
    GS.TS Kiều Thu Hoạch năm nay bước sang tuổi 92. Đi qua hành trình gần trọn một thế kỷ, ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị. Đó là sự kết tinh trí tuệ của một học giả Hán Nôm uyên bác cùng hành trình trải nghiệm học thuật và cả sự tiếp xúc với các bậc túc nho nhiều thế hệ. Những công trình ấy đã mở ra nhiều hướng tiếp cận khả thi trong nghiên cứu lịch sử, văn hóa Việt Nam.
  • Miền ký ức vọng về từ mùa thu Hà Nội
    Thủ đô Hà Nội mùa nào cũng đẹp, nhưng có lẽ đẹp nhất vẫn là mùa thu. Trong nhiều thi phẩm viết về Hà Nội, “Mùa thu về Hà Nội” của Mạc Phương là một bài thơ giàu chất trữ tình, gợi mở bức tranh mùa thu thơ mộng, đồng thời chan chứa nỗi niềm yêu thương, hoài niệm về một mối tình xưa.
  • Có một mùa thu vẫn còn thơ bé
    Khi những vạt nắng xanh non tháng Chín lung linh nhảy múa bên thềm nhà, bọn trẻ con đã bắt đầu vào năm học mới, lòng tôi lại rộn lên những cảm xúc bâng khuâng khó tả. Trong tâm trí, tôi thấy nhảy nhót những trang sách giáo khoa thời tiểu học, với hình ảnh con gà, con mèo, bắp cải, con trâu... lần lượt ùa về.
  • Để văn học Thủ đô tiếp tục khẳng định vị thế
    Song hành với thành tựu phát triển kinh tế, chính trị của Thủ đô 80 năm qua, Thành phố Hà Nội đang nỗ lực xây dựng hình ảnh một đô thị thanh lịch, văn minh, trong đó chiều sâu văn hóa được thể hiện qua các tác phẩm văn học nghệ thuật (VHNT) gắn bó với đời sống nhân dân Thủ đô. Nói riêng về diện mạo văn học, bên cạnh những thành tựu to lớn mà các nhà văn Hà Nội đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ thì các tác phẩm văn học có quy mô và chất lượng cao ở thời kỳ đổi mới vẫn còn thưa vắng, thậm chí mờ nhạt. Nhìn lại chặng đường sáng tạo văn chương của các nhà văn dưới mái nhà chung - Hội Nhà văn Hà Nội, đặc biệt trong 20 năm trở lại đây có thể thấy rõ điều đó.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Ra mắt tác phẩm đặc sắc của nhà văn Séc Arnošt Lustig
    Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam vừa phát hành bản dịch tiếng Việt của tiểu thuyết “Lời nguyện cầu cho Katerina” của nhà văn Séc Arnošt Lustig (1926–2011). Đây là một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng nhất viết về thảm họa Holocaust do dịch giả Bình Slavická chuyển ngữ.
  • Tôn vinh tinh hoa văn hóa các dân tộc Việt Nam tại “Ngôi nhà chung”
    Từ ngày 1 đến 30/11/2025, tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội) sẽ diễn ra chuỗi hoạt động tháng 11 với chủ đề “Đại đoàn kết - Tinh hoa văn hóa các dân tộc Việt Nam”.
  • Tái hiện sinh động tinh hoa di sản múa cổ Thăng Long - Hà Nội
    Tối 31/10/2025, tại Sân khấu Không gian Biểu diễn Nghệ thuật - Ẩm thực đường phố phường Tây Hồ (phố đi bộ Trịnh Công Sơn, đường Lạc Long Quân, quận Tây Hồ, Hà Nội), Hội Nghệ sĩ Múa Hà Nội tổ chức Chương trình biểu diễn “Bảo tồn và phát huy nghệ thuật múa cổ truyền Thăng Long - Hà Nội năm 2025”. Đây là hoạt động trong khuôn khổ Đề án “Sưu tầm, bảo tồn và phát huy nghệ thuật múa cổ truyền Thăng Long - Hà Nội” do Hội Nghệ sĩ Múa Hà Nội triển khai năm thứ hai.
  • Phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và con người Việt Nam
    Hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã công bố toàn văn các dự thảo văn kiện để lấy ý kiến rộng rãi của các tầng lớp Nhân dân, cán bộ, đảng viên. Đây là bước đổi mới quan trọng trong phương thức lãnh đạo, thể hiện tinh thần dân chủ, công khai và cầu thị của Đảng ta.
  • UNESCO vinh danh Danh nhân văn hoá Lê Quý Đôn
    Danh nhân Lê Quý Đôn sinh ngày 02/08/1726, mất ngày 11/06/1784, tại làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam (xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, nay là xã Lê Quý Đôn, tỉnh Hưng Yên).
Đừng bỏ lỡ
Trái đất ngủ mơ mùa thu thay áo
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO