Lý luận - phê bình

Trò chuyện với nhà nghiên cứu Nhật Chiêu về thơ haiku

Yến Ly 22/10/2023 13:57

Tối ngày 21/10/2023, những người yêu thơ haiku tại Hà Nội đã có cuộc giao lưu, trò chuyện với nhà nghiên cứu Nhật Chiêu với chủ đề “Haiku tương thoại”. Cuộc trò chuyện do nhóm Ô Thước/ Authors tổ chức tại không gian cà phê sách Tổ Chim Xanh, Hà Nội.

Nhà giáo, nhà nghiên cứu và dịch giả Nhật Chiêu là một trong những người đi đầu trong việc dịch và giới thiệu thơ haiku tại Việt Nam từ đầu những năm 1980. Ông được xem là chuyên gia có uy tín bậc nhất về văn học Nhật Bản tại Việt Nam hiện nay, là người truyền cảm hứng để nhiều người bước vào tìm hiểu và thử nghiệm với haiku. Ông là là cố vấn cho CLB thơ Haiku Việt Nam, là tác giả của các đầu sách như: 𝐵𝑎 𝑛𝑔ℎ𝑖̀𝑛 𝑡ℎ𝑒̂́ 𝑔𝑖𝑜̛́𝑖 𝑡ℎ𝑜̛𝑚 (biên khảo), 𝐵𝑎𝑠ℎ𝑜 𝑣𝑎̀ 𝑡ℎ𝑜̛ 𝐻𝑎𝑖𝑘𝑢 (biên khảo), 𝑁ℎ𝑎̣̂𝑡 𝐵𝑎̉𝑛 𝑡𝑟𝑜𝑛𝑔 𝑐ℎ𝑖𝑒̂́𝑐 𝑔𝑢̛𝑜̛𝑛𝑔 𝑠𝑜𝑖 (biên khảo),… và cũng là người sáng tác haiku và khởi xướng lối thơ mới: thơ đôi đồng phương haiku-lục bát.

Tương thoại - haiku và lục bát

Haiku là một thể thơ độc đáo của Nhật Bản, ra đời từ thế kỷ 17 và phát triển mạnh trong thời kỳ Edo (thế kỷ 17 - nửa cuối thế kỷ 19). Matsuo Basho được coi là người đã đưa haiku phát triển hoàn thiện như ngày nay.

Haiku là thể thơ ngắn nhất thế giới. Ở Việt Nam, haiku thường được phát âm là “hài cú”, nhất là vùng Sài Gòn trước đây. Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu cho biết, “đối với thơ lục bát của Việt Nam, một bài ngắn nhất chỉ với hai câu thì vẫn gồm 14 từ tất cả. Có thể nói rằng, lục bát Việt Nam tưởng ngắn gọn nhưng thực ra không ngắn, là do khi phát âm thì 1 âm cũng chính là 1 từ. Còn trong tiếng Nhật, có những từ mà 1 từ có 5 âm. Như vậy, trong bài haiku có 17 âm, nhưng nếu viết thành từ thì số từ có thể ít hơn con số 17; 17 âm tưởng dài nhưng lại không dài. Vì vậy mà 1 bài thơ 14 âm trong tiếng Việt (2 câu lục bát) và 1 bài thơ 17 âm trong tiếng Nhật (haiku) hoàn toàn khác nhau - không thể so sánh độ ngắn gọn của 2 bài thơ này. Đây là một sai lầm về hình thức của nhiều người khi so sánh haiku và lục bát”.

Nếu lục bát là thể thơ phổ biến trong kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam, xuất hiện nhiều trong ca dao và có phân tính nam nữ trong các lối đối đáp thì haiku không như thế. Thậm chí, trong văn chương Việt nói chung và ở lục bát nói riêng, người phụ nữ nhiều khi sẵn sàng và có thể thẳng thừng mỉa mai người nam qua đối đáp (thơ Hồ Xuân Hương là một ví dụ về tâm thế người nữ trước đàn ông). Còn đối với haiku, nếu có tính đối đáp hay sáng tác liên hoàn, thì cũng thuộc về một nhóm nam giới. Nam giới Nhật Bản khi ngồi làm thơ haiku nối nhau/ liên hoàn theo hình thức có số lượng câu là 3 - 2 - 3 - 2. Người xướng 3 câu đầu tiên là người nổi tiếng được trọng vọng, tiếp theo là đàn em, học trò của người mở đầu làm tiếp 2 câu, tiếp tục 3 câu, rồi 2 câu.

393815629_658401299693673_3604889985929848744_n(1).jpg
Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu tại buổi trò chuyện "Haiku tương thoại".

“Dù chịu ảnh hưởng lớn từ văn hóa Trung Hoa như các nước Á Đông khác, nhưng người Việt không bao giờ bắt chước và để bị chịu ảnh hưởng những hủ tục dã man với người nữ như tục bó chân của người Trung Quốc. Cùng với đó là những màn đối đáp mạnh dạn/ bình đẳng của người nữ ta với người nam trong kho tàng văn học dân gian. Điều này cho thấy bản lĩnh của người Việt Nam và sự coi trọng phụ nữ và phụ nữ được bình đẳng hơn nhiều các nước khác ở xã hội Việt Nam xưa”, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu nhận định.

Lục bát và haiku giống nhau ở chỗ không cố gắng đi đến những chứng minh chân lý, những triết luận mà rất đơn giản, không cố gắng “làm bộ làm tịch”. Nhưng có một điểm rất khác đó là lục bát mang tính trực diện, bộc bạch, tình cảm phát lộ ra ngoài nhiều hơn. Còn haiku thì mang những tình cảm ẩn giấu nhiều hơn. Lấy ví dụ cho điều này, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu đã đọc một bài thơ ngắn về cùng một chủ đề tình yêu ở dạng haiku và lục bát. Nếu trong haiku diễn đạt là: “hòn cuội nghiêng dần/ lên hòn cuội khác/ dưới dòng suối xuân” thì trong lục bát có thể sẽ diễn đạt thành “nụ hôn của núi hằn sâu/ lên gương mặt nước một màu hoàng hôn”. “Trong thi pháp của Đông phương, khi nói đến nước là nói đến tình yêu nam nữ”, nhà nghiên cứu diễn giải.

Haiku - đơn giản là khoảnh khắc

Nhiều người thường cho rằng haiku đề cao tính triết lý. Thực tế là haiku không cố gắng khai thác các khái niệm, không lập luận, không suy nghiệm, không triết lý. Haiku chỉ đơn giản là đưa ra hình ảnh. Haiku muốn người đọc cảm thấy, sờ thấy, ngửi thấy, nói chung là đánh thức các giác quan. Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu cho rằng đây là sai lầm của nhiều người khi nghĩ và bàn về haiku.

Người phương Tây thiên về khái niệm, về những sám hối, mặc cảm… Vì thế, thơ họ cũng mang đầy khái niệm và lý luận. Họ đưa ra khái niệm rồi cắt nghĩa một cách trừu tượng. Trong khi đó, lục bát và haiku thì đưa ra những điều cụ thể, trực tiếp hơn.

“Trên cành khô/ cánh quạ đậu/ chiều thu” là một bài thơ nổi tiếng của Basho. Đơn giản là một hình ảnh, một khoảnh khắc của sự vật, hiện tượng.

394042170_1036208297528527_6739578673200609179_n.jpg
Cuộc trò chuyện mở ra những góc nhìn mới cho người yêu thơ haiku tại Hà Nội.

“Bản chất của haiku rất ghét những từ ngữ mang tính trừu tượng. Dù chịu ảnh hưởng của Phật giáo nhưng haiku không dùng tánh không, giai không, sự không như một khái niệm. Haiku hướng tới cái có thật trên đời - là những vật hiện hữu. Haiku tựa vào những thứ ta sờ, cầm được và trò chuyện với ta về những hiện hữu đó”, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu nhấn mạnh.

Bằng ngôn từ đơn giản và trực diện, haiku đánh thức các giác quan người đọc, để người đọc cảm và nhận thấy những hiện hữu đang là của sự vật hiện tượng, của khoảnh khắc. Đó là những thứ đang là. Đó cũng là một cách lưu giữ khoảnh khắc, như nhiếp ảnh gia luôn chụp lại một khoảnh khắc lóe sáng, bất ngờ của thực tại, trong cuộc sống. Và điều này cũng rất gần với triết lý trong Phật giáo, ở một phần trong tính thực tại, vì thế mà nhiều người gán rằng haiku mang tính triết lý chăng?

Cuộc trò chuyện với nhà nghiên cứu Nhật Chiêu đã gợi mở thêm những góc nhìn không chỉ về haiku mà còn cả với lục bát, mang đến những thông tin hữu ích cho người yêu thơ haiku hoặc đang theo đuổi nghiên cứu, thực nghiệm với dòng thơ này./.

Bài liên quan
  • Yêu thương và khát vọng của một đời thơ
    Trong lịch sử văn chương, nghệ thuật nước nhà, nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đã để lại cho đời một di sản nghệ thuật lớn, với những tác phẩm in dấu trong lòng công chúng như: “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”; “Hoa cúc xanh trên đầm lầy”; “Ông không phải bố tôi”…
(0) Bình luận
  • Miền ký ức vọng về từ mùa thu Hà Nội
    Thủ đô Hà Nội mùa nào cũng đẹp, nhưng có lẽ đẹp nhất vẫn là mùa thu. Trong nhiều thi phẩm viết về Hà Nội, “Mùa thu về Hà Nội” của Mạc Phương là một bài thơ giàu chất trữ tình, gợi mở bức tranh mùa thu thơ mộng, đồng thời chan chứa nỗi niềm yêu thương, hoài niệm về một mối tình xưa.
  • Có một mùa thu vẫn còn thơ bé
    Khi những vạt nắng xanh non tháng Chín lung linh nhảy múa bên thềm nhà, bọn trẻ con đã bắt đầu vào năm học mới, lòng tôi lại rộn lên những cảm xúc bâng khuâng khó tả. Trong tâm trí, tôi thấy nhảy nhót những trang sách giáo khoa thời tiểu học, với hình ảnh con gà, con mèo, bắp cải, con trâu... lần lượt ùa về.
  • Để văn học Thủ đô tiếp tục khẳng định vị thế
    Song hành với thành tựu phát triển kinh tế, chính trị của Thủ đô 80 năm qua, Thành phố Hà Nội đang nỗ lực xây dựng hình ảnh một đô thị thanh lịch, văn minh, trong đó chiều sâu văn hóa được thể hiện qua các tác phẩm văn học nghệ thuật (VHNT) gắn bó với đời sống nhân dân Thủ đô. Nói riêng về diện mạo văn học, bên cạnh những thành tựu to lớn mà các nhà văn Hà Nội đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ thì các tác phẩm văn học có quy mô và chất lượng cao ở thời kỳ đổi mới vẫn còn thưa vắng, thậm chí mờ nhạt. Nhìn lại chặng đường sáng tạo văn chương của các nhà văn dưới mái nhà chung - Hội Nhà văn Hà Nội, đặc biệt trong 20 năm trở lại đây có thể thấy rõ điều đó.
  • Cảnh và tình trong thơ Nguyễn Trọng Nghĩa
    “Chuyện hàng rào có hoa” đã mở ra một viễn cảnh giữa bề bộn của cuộc sống nơi hàng rào đầy tĩnh lặng. Sự sống cấp tập, chen lấn. Nhưng trong chớp mắt, một khoảng không ùa ra, tua tủa những mầm tươi nõn ngỡ như từ một thế giới khác hiện hình, thẳm xa hừng lên. Thảng thốt trước màn ảnh sân khấu khổng lồ, ngần sáng, các cảnh sắc và các nhân vật chính diện cứ tự nhiên hoá tình, đánh thức kỷ niệm, tưởng như trong cổ tích bước tới.
  • Âm nhạc Thủ đô - 80 năm đồng hành cùng dân tộc
    Trong suốt chiều dài lịch sử, đặc biệt là 80 năm qua, văn học nghệ thuật Thủ đô luôn đồng hành cùng dân tộc trên mọi chặng đường lịch sử: từ những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám sục sôi khí thế, qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, đến công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước hiện nay. Trong bức tranh chung ấy, âm nhạc Thủ đô Hà Nội giữ một vai trò đặc biệt: vừa là tiếng nói của tâm hồn dân tộc nói chung, tiếng nói “Người Hà Nội” nói riêng, vừa là vũ khí tinh thần sắc bén thôi thúc từng đoàn quân ra trận để bảo vệ Thủ đô, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, dân tộc.
  • Nghệ sĩ Tây Phong: “Con đường diễn và ca như một mạch ngầm thôi thúc”
    Mái tóc dài, trang phục lụng thụng và luôn xuất hiện trước công chúng với những màn trình diễn độc, lạ… đó là hình ảnh quen thuộc của nghệ sĩ Tây Phong dù là trên sân khấu kịch nói hay trong những chương trình nghệ thuật biểu diễn sắp đặt âm nhạc đương đại kết hợp hội họa. Với anh, mỗi vở diễn hay trích đoạn sân khấu đều là một lần sáng tạo mới, nơi người nghệ sĩ được đối diện với nhân vật, được sống trong cùng không gian, thời gian.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
Đừng bỏ lỡ
Trò chuyện với nhà nghiên cứu Nhật Chiêu về thơ haiku
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO