Lý luận - phê bình

Yêu thương và khát vọng của một đời thơ

Lời bình của Đinh Phương Thúy 19/10/2023 11:26

Trong lịch sử văn chương, nghệ thuật nước nhà, nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đã để lại cho đời một di sản nghệ thuật lớn, với những tác phẩm in dấu trong lòng công chúng như: “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”; “Hoa cúc xanh trên đầm lầy”; “Ông không phải bố tôi”…

anh-luu-quang-vu.jpeg

Lưu Quang Vũ

Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi

Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi
Gió rừng cao xạc xào lá đổ
Gió mù mịt những con đường bụi đỏ
Những dòng sông ào ạt cánh buồm căng
Chớm heo may trên những ngọn cau vàng
Nồm nam thổi, khắp đồng bông gạo trắng
Người xa cách vẫn chung trời gió lộng
Thương vệt bùn trên áo gió khô se.

Gió phương này thao thức phương kia
Bếp lửa tắt, gió lại bùng than đỏ
Không hình dáng vẫn nhận ra ngọn gió
Khi ngàn cây bỗng lật lá sang chiều.

Khi em về tóc ngợp gió đê cao
Mây cuồn cuộn, cỏ rập rờn nổi sóng
Trong gió chuyển, đất trời dường náo động
Nằm bên em, nghe gió suốt đêm dài.

Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi
Chưa xóm mạc đã bắt đầu ngọn gió
Thổi không yên suốt dọc dài lịch sử
Qua đất đai và đời sống con người.

Gió gieo tung những hạt giống trên tay
Giọt nước mắt mau khô, tiếng gọi đò vọng mãi
Vầng trán với bể khơi chung gió ấy
Ở nơi đâu cũng tới được chân trời.

Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi
Như tiếng gọi ngàn đời không khuất phục
Đất nước giống như con thuyền xuyên gió mạnh
Những mối tình trong gió bão tìm nhau.

Qua mọi điều, ngọn gió có qua đâu
Luôn luôn ra đi, luôn luôn mới đến
Thơ em viết về một vùng cát biển
Cỏ mặt trời trong lốc bụi lăn đi...

Đã có lần tôi muốn nguôi yên
Khép cánh cửa lòng mình cho gió lặng
Nhưng vô ích làm sao quên được
Những yêu thương khao khát của đời tôi.

Tôi thở trong sức gió muôn người
Mùa gió mới nhờ em tôi có lại
Bài hát cũ tôi hát cùng đồng đội
Lại dập dồn như gió khắp rừng khuya.

Dẫu đêm nay ngọn gió mùa hè
Còn bề bộn một vùng gạch ngói
Lịch sử quay những vòng xoáy gian nan
Đất nước tôi như một con thuyền
Lướt trên sóng những ngực buồm trắng xoá.

Ước chi được hóa thành ngọn gió
Để được ôm trọn vẹn nước non này
Để thổi ấm những đỉnh đèo buốt giá
Để mát rượi những mái nhà nắng lửa
Để luôn luôn được trở lại với đời...

Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi...

Tuy nhiên, thơ mới là phần chạm đến tâm hồn ông, bộc lộc cốt cách con người ông. Trong số những sáng tác thi ca ấy, “Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi” là bài thơ tiêu biểu trong đời thơ Lưu Quang Vũ, mang đến cho người đọc những rung động về tình yêu đất nước, yêu thương con người và còn có cả sự thôi thúc, khát vọng được cống hiến mà chính ông là người đã dốc cạn đời mình để thắp sáng lý tưởng đó.

Trong hoàn cảnh đất nước sau chiến tranh đang vô cùng khó khăn, cơ cực, hồn thơ Lưu Quang Vũ, đặc biệt trong những năm cuối đời lại dạt dào cảm hứng đất nước, dân tộc, nhân dân, với những thiết tha, lưu luyến và chịu ơn. Tựa đề bài thơ “Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi” đã thể hiện một cách khái quát, trọn vẹn tâm thế sáng tác, niềm tin yêu cuộc đời của một tâm hồn thi ca đang dâng tràn cảm xúc về tình yêu con người, yêu quê hương, xứ sở.

Mở đầu bài thơ “Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi”, bạn đọc thấy thấp thoáng hình ảnh đất nước rất đỗi giản dị, với những con đường bụi đỏ, cánh buồm căng, ngọn cau vàng, bông gạo trắng, những vệt bùn, than đỏ… Từ đó, người đọc có thể hình dung “mẹ đất nước” suốt dọc dài lịch sử qua hình tượng “gió”: luôn thao thức, thổi không yên “qua đất đai và đời sống con người”. Như một sự chuyển điệu bất ngờ, ngay sau đó, những vần thơ của “Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi” lại đánh thức trong ta những rung cảm yêu thương cuộc đời: “Gió gieo tung những hạt giống trên tay/ Giọt nước mắt mau khô, tiếng gọi đò vọng mãi”, cũng giống như tiếng gõ cửa rất nhẹ mà sâu lắng, thắp lên ngọn lửa ấm áp của tình yêu, tình thương và lẽ sống. Từ đó có thể thấy: Cảm thức của Lưu Quang Vũ, ngôn ngữ và hình tượng thơ ca của ông cũng như nơi gói ghém, đọng lại tư tưởng nhân văn, nhân đạo với tình yêu thương da diết, đầy trăn trở với cuộc đời, với con người, với thời đại, với những năm tháng mà mình và bạn bè, người thân đã sống. Những yêu thương, khao khát cuộc đời Lưu Quang Vũ hiện lên trong thơ: “Đã có lần tôi muốn nguôi yên/ Khép cánh cửa lòng mình cho gió lặng/ Nhưng vô ích làm sao quên được/ Những yêu thương khao khát của đời tôi”.

Sinh thời, Lưu Quang Vũ từng viết như một lời tuyên ngôn: “Trên mái nhà cao vút rung cây/ Trên rừng cây những đám mây xô dạt/ Trên hạnh phúc - trên cả niềm cay đắng/ Thơ tôi là mây trắng của đời tôi”. Và trên hết, người đọc cảm nhận Lưu Quang Vũ dành nhiều cảm hứng cho đề tài đất nước, dân tộc, nhân dân. Trong bài thơ “Nói với mình và các bạn”, ông từng khẳng định: “Thơ không phải là chứng minh/ Không phải hào quang phản chiếu của tấm gương/ Thơ là bó đuốc đốt thiêu, là bàn tay thắp lửa/ Thơ sinh sự với cuộc đời, không cho ai dừng bước cả/ Càng thương yêu càng không vừa ý với mọi điều”… Dường như trong những câu thơ, người đọc cảm nhận được con người ấy phải bùng ra khỏi không gian chật hẹp của mình để mở lòng, mở tâm trí với nhân quần, quê hương. Ngay cả trong bài “Nhà chật”, Lưu Quang Vũ kể về căn nhà 6m2của mình với Xuân Quỳnh, chật đến nỗi chỉ quờ tay ra là có thể chạm vào thùng gạo: “Ta chỉ có 6 thước vuông cho hạnh phúc của mình”. Nhưng kết thúc bài thơ đó “Bạn đời ơi ngoài kia trời nổi gió” – thể hiện tinh thần không cam chịu sống trong sự chật hẹp. Không gian sống cụ thể có thể bé nhỏ nhưng không gian của tinh thần, không gian của thơ phải nhuần nhuyễn, mở rộng thênh thang. Cho nên “Đất nước tôi như một con thuyền/ Lướt trên sóng những ngực buồm trắng xóa” là một hình ảnh rất đẹp, như một hình dung khoáng đạt về hình ảnh đất nước, về Tổ quốc trong những ngày gian khó, không chỉ những ngày đã qua mà còn những ngày đang tới.

Yêu thương tha thiết, gần gũi, giản dị: “Ước chi được hóa thành ngọn gió/ Để được ôm trọn vẹn nước non này” - khổ thơ kết của bài thơ “Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi” đã khái quát trọn vẹn cảm xúc cũng như khát vọng của Lưu Quang Vũ, ý thức về sự cống hiến, được trở thành những ngọn gió, cùng góp phần đẩy con thuyền đất nước vượt qua những con sóng cả.

Tư tưởng cốt lõi trong thơ Lưu Quang Vũ là tình yêu và tình thương và niềm hi vọng. Sau những cái nhìn khắc khoải, lo âu, sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, sau những chất vấn, hoài nghi, trong những trăn trở về lẽ sống con người, về thời đại và những bước đường đi lên của dân tộc, Lưu Quang Vũ vẫn luôn hướng người đọc đến những điều tích cực. Bài thơ “Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi” ra đời cùng thời điểm với những bài thơ nổi tiếng khác như “Tiếng Việt”, “Đất nước đàn bầu”, “Người cùng tôi”… thể hiện tình yêu với đất nước, quê hương, cảm xúc về nhân dân lẫn vào dàn đồng ca thế hệ nhưng vẫn mang cá tính Lưu Quang Vũ rõ rệt. Nhà phê bình Lưu Khánh Thơ từng viết: “Thơ ca đã đi cùng ông trong những năm tháng cuộc đời. Bản năng thi sĩ của ông giàu có trong những nỗi buồn, cô đơn, tuyệt vọng. Những khoảnh khắc bị dồn đẩy đến cùng, thơ ông luôn muốn tung bứt lên để đối mặt với chính cảnh ngộ của mình. Vốn là một người đàn ông tài hoa, đa cảm nên tình yêu và thơ ca luôn luôn là một cứu cánh còn lại trong đời”. Do vậy, bài thơ “Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi” như thức dậy trong ta những rung cảm, yêu thương cuộc đời, ước mơ con người được sống đời bình dị, đam mê. Những năm tháng nhọc nhằn của dân tộc, của đời người rồi cũng đi qua. Tình yêu, cũng như những khao khát cuộc đời vẫn luôn được nhen nhóm, như sợi dây gắn kết con người, tạo nên sức mạnh cũng như những giá trị vĩnh hằng, dẫu ở muôn nơi, dẫu là muôn thuở vẫn luôn luôn hướng đến./.

Bài liên quan
  • Một nhu cầu khác của văn học thị trường Việt Nam đương đại
    Nằm trong chuỗi hoạt động của Hội sách Hà Nội lần thứ VIII - 2023, “Bản địa, thuần Việt, dân gian: Một nhu cầu của thị trường văn học đương đại” là chủ đề của buổi tọa đàm sôi nổi giữa TS. Đỗ Anh Vũ, nhà văn Thảo Trang và nhà văn Đức Anh cùng đông đảo độc giả. Sự kiện do Linh Lan Books tổ chức, diễn ra chiều ngày 8/10/2023 tại phố Đinh Tiên Hoàng, Hà Nội.
(0) Bình luận
  • Hai thể thơ mới namkau và 1-2-3 trong lịch sử phát triển của các thể thơ dân tộc
    Khoảng mươi năm gần đây, trên thi đàn Việt xuất hiện hai thể thơ mới: namkau và 1-2-3. Là sản phẩm của thế kỷ công nghệ số, những thể thơ này còn đang ở thời kỳ phôi thai trứng nước.
  • Văn Cao, mùa bình thường...
    Văn Cao là một người tài hoa. Gọi ông là nhạc sĩ, thi sĩ hay họa sĩ đều được. Song tôi nghĩ, gọi ông là nhạc sĩ vẫn chuẩn xác hơn cả, bởi đó là điểm khởi đầu cũng là lĩnh vực ông bộc lộ tài năng nhất và cũng thành công nhất. Nhưng hãy khoan bàn về điều này, tôi muốn phác họa đôi nét về con người Văn Cao qua ấn tượng của mình sau hai lần gặp gỡ...
  • GS.TS Kiều Thu Hoạch: Người cần mẫn nghiên cứu văn hóa dân gian
    GS.TS Kiều Thu Hoạch năm nay bước sang tuổi 92. Đi qua hành trình gần trọn một thế kỷ, ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị. Đó là sự kết tinh trí tuệ của một học giả Hán Nôm uyên bác cùng hành trình trải nghiệm học thuật và cả sự tiếp xúc với các bậc túc nho nhiều thế hệ. Những công trình ấy đã mở ra nhiều hướng tiếp cận khả thi trong nghiên cứu lịch sử, văn hóa Việt Nam.
  • Miền ký ức vọng về từ mùa thu Hà Nội
    Thủ đô Hà Nội mùa nào cũng đẹp, nhưng có lẽ đẹp nhất vẫn là mùa thu. Trong nhiều thi phẩm viết về Hà Nội, “Mùa thu về Hà Nội” của Mạc Phương là một bài thơ giàu chất trữ tình, gợi mở bức tranh mùa thu thơ mộng, đồng thời chan chứa nỗi niềm yêu thương, hoài niệm về một mối tình xưa.
  • Có một mùa thu vẫn còn thơ bé
    Khi những vạt nắng xanh non tháng Chín lung linh nhảy múa bên thềm nhà, bọn trẻ con đã bắt đầu vào năm học mới, lòng tôi lại rộn lên những cảm xúc bâng khuâng khó tả. Trong tâm trí, tôi thấy nhảy nhót những trang sách giáo khoa thời tiểu học, với hình ảnh con gà, con mèo, bắp cải, con trâu... lần lượt ùa về.
  • Để văn học Thủ đô tiếp tục khẳng định vị thế
    Song hành với thành tựu phát triển kinh tế, chính trị của Thủ đô 80 năm qua, Thành phố Hà Nội đang nỗ lực xây dựng hình ảnh một đô thị thanh lịch, văn minh, trong đó chiều sâu văn hóa được thể hiện qua các tác phẩm văn học nghệ thuật (VHNT) gắn bó với đời sống nhân dân Thủ đô. Nói riêng về diện mạo văn học, bên cạnh những thành tựu to lớn mà các nhà văn Hà Nội đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ thì các tác phẩm văn học có quy mô và chất lượng cao ở thời kỳ đổi mới vẫn còn thưa vắng, thậm chí mờ nhạt. Nhìn lại chặng đường sáng tạo văn chương của các nhà văn dưới mái nhà chung - Hội Nhà văn Hà Nội, đặc biệt trong 20 năm trở lại đây có thể thấy rõ điều đó.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Ra mắt tác phẩm đặc sắc của nhà văn Séc Arnošt Lustig
    Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam vừa phát hành bản dịch tiếng Việt của tiểu thuyết “Lời nguyện cầu cho Katerina” của nhà văn Séc Arnošt Lustig (1926–2011). Đây là một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng nhất viết về thảm họa Holocaust do dịch giả Bình Slavická chuyển ngữ.
  • Tôn vinh tinh hoa văn hóa các dân tộc Việt Nam tại “Ngôi nhà chung”
    Từ ngày 1 đến 30/11/2025, tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội) sẽ diễn ra chuỗi hoạt động tháng 11 với chủ đề “Đại đoàn kết - Tinh hoa văn hóa các dân tộc Việt Nam”.
  • Tái hiện sinh động tinh hoa di sản múa cổ Thăng Long - Hà Nội
    Tối 31/10/2025, tại Sân khấu Không gian Biểu diễn Nghệ thuật - Ẩm thực đường phố phường Tây Hồ (phố đi bộ Trịnh Công Sơn, đường Lạc Long Quân, quận Tây Hồ, Hà Nội), Hội Nghệ sĩ Múa Hà Nội tổ chức Chương trình biểu diễn “Bảo tồn và phát huy nghệ thuật múa cổ truyền Thăng Long - Hà Nội năm 2025”. Đây là hoạt động trong khuôn khổ Đề án “Sưu tầm, bảo tồn và phát huy nghệ thuật múa cổ truyền Thăng Long - Hà Nội” do Hội Nghệ sĩ Múa Hà Nội triển khai năm thứ hai.
  • Phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và con người Việt Nam
    Hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã công bố toàn văn các dự thảo văn kiện để lấy ý kiến rộng rãi của các tầng lớp Nhân dân, cán bộ, đảng viên. Đây là bước đổi mới quan trọng trong phương thức lãnh đạo, thể hiện tinh thần dân chủ, công khai và cầu thị của Đảng ta.
  • UNESCO vinh danh Danh nhân văn hoá Lê Quý Đôn
    Danh nhân Lê Quý Đôn sinh ngày 02/08/1726, mất ngày 11/06/1784, tại làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam (xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, nay là xã Lê Quý Đôn, tỉnh Hưng Yên).
Đừng bỏ lỡ
Yêu thương và khát vọng của một đời thơ
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO