Lý luận - phê bình

Khúc tình thu – một khát khao giao cảm

Lời bình của TS. Đỗ Anh Vũ 15:55 09/09/2023

Mùa thu từ cổ chí kim vốn đã là nguồn cảm hứng bất tận cho bao thế hệ thi sĩ. Thơ tình về mùa thu của người Việt, chỉ tính từ thời Thơ Mới đến nay cũng đã có rất nhiều, thậm chí nhiều bài trong số đó đã được phổ nhạc thành những ca khúc nổi tiếng như “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư (Phạm Duy, Hữu Xuân phổ nhạc), “Tỳ bà” của Bích Khê (Phạm Duy phổ nhạc), “Thơ tình cuối mùa thu” của Xuân Quỳnh (Phan Huỳnh Điều phổ nhạc), “Khúc mùa thu” của Hồng Thanh Quang (Phú Quang phổ nhạc), “Yên tĩnh” của Giáng Vân (Phú Quang phổ nhạc thành ca khúc “Đâu phải bởi mùa thu”)…

anh-dep-ve-mua-thu-ha-noi_110718181.jpg

Mùa thu

Tăm cá vỡ mặt hồ

Sóng chạm vào nỗi nhớ

Tới em

Mùa thu

Tiếng chim gù

Cuối phố

Em còn nhìn bỡ ngỡ

Hai mắt tròn như đôi tiếng chim

Khi lặng lẽ khẽ tìm

Một chấm hè son trên cành phượng

Cái tuổi biết yêu thu đầy mộng tưởng

Mà ngày ơi đã ngắn dần rồi

Thu về chín vỡ trong tôi

Hương bao trái lạ rối bời lời chim

Thu đi để lại bên thềm

Nghìn con mắt lá đang nhìn về đâu

Chúng mình đã lỡ thương nhau

Đừng như thu rụng đôi màu lá thu

Lâm Huy Nhuận

Trong cả một rừng những thi phẩm ấy, “Mùa thu” của Lâm Huy Nhuận vẫn tìm ra được một lối đi riêng. Phần ghi chú về ngày tháng cho ta biết bài thơ được viết từ năm 1978 nhưng mãi hơn 20 năm sau mới được in vào tập thơ “Chiều có thật” (1999), một tập thơ tình nổi tiếng của người con trai thi sĩ Yến Lan.

“Mùa thu” của Lâm Huy Nhuận là một tiếng lòng sẻ chia, một khát khao tình yêu của thi sĩ được bày tỏ qua tiếng nói người con trai. Người yêu lúc này không ở bên, có một khoảng cách xa nhau nhất định, nên thi phẩm mới mở ra bằng nỗi nhớ: “Tăm cá vỡ mặt hồ/ Sóng chạm vào nỗi nhớ/ Tới em”.

Khổ thơ thứ nhất chỉ gồm ba câu. Tình thu mở ra thật khẽ khàng bởi âm thanh rất mỏng, nhẹ. Chỉ là một tiếng tăm cá vỡ. Hình ảnh là cái đập vào mắt ta nhiều hơn. Từ cái mong manh của tăm cá vỡ ấy, những con sóng của nỗi nhớ người yêu cứ lan dần, lan dần.

Mạch thơ chuyển từ xa về gần. Khổ thứ hai cũng gồm ba dòng nhưng số chữ lại ngắn hơn khổ trước, chỉ gồm 7 từ: “Mùa thu/ Tiếng chim gù/ Cuối phố”.

Nếu như khổ thơ đầu nghiêng về hình ảnh thì khổ thứ hai nghiêng về âm thanh. Tiếng chim mùa thu nổi lên và dường như đó là tiếng chim gọi bạn, tiếng chim tìm bạn. Nhưng “cuối phố vẫn còn xa quá, nhịp thơ tiếp tục tiến về gần hơn với lòng mình để hiện ra bóng dáng một người con gái: “Em còn nhìn bỡ ngỡ/ Đôi mắt tròn như đôi tiếng chim”.

Câu thơ thật đẹp và gợi cảm. Tả về đôi mắt của người yêu mà lại tả bằng tiếng chim, không những thế, phải là “đôi tiếng chim”, nghĩa là âm thanh của tình tự, của đôi lứa. Đôi mắt ấy không lời mà giống như đã nói bao điều. Sau khi đã xuất hiện những hình ảnh mùa thu, âm thanh mùa thu thì bây giờ ta bắt gặp những màu sắc: “Khi lặng lẽ khẽ tìm/ Một chấm hè son trên cành phượng/ Cái tuổi biết yêu thu đầy mộng tưởng/ Mà ngày ơi đã ngắn dần rồi”.

Lạ! Đang nói thu bỗng đột ngột dịch chuyển thời gian ngược về mùa hè. Thì ra lòng người đang sợ thời gian trôi đi quá nhanh. Thời gian trôi đi nhanh thì e rằng những ngày tháng yêu nhau cũng dường như ngắn lại. Bởi thế thu vẫn còn đang ở đây mà phải níu kéo những chấm son trên cành phượng và thấy thời gian trôi đi thật rõ rệt, nằm ngoài sự kiểm soát của con người: “Mà ngày ơi đã ngắn dần rồi.

Sau ba khổ với nhịp thơ tự do lúc trầm bổng khoan thai, lúc hối hả níu kéo, khổ cuối của thi phẩm gồm 6 câu bỗng chuyển về thể lục bát đều đặn ngọt ngào như thể thi sĩ không còn che giấu được lòng mình. Đó chính là sự bảy tỏ tình yêu một cách nồng nàn nhất, tha thiết nhất với người con gái của anh:

Thu về chín vỡ trong tôi/ Hương bao trái lạ rối bời tiếng chim/ Thu đi để lại bên thềm/ Nghìn con mắt lá đang nhìn về đâu/ Chúng mình đã lỡ thương nhau/ Đừng như thu rụng đôi màu lá thu”.

Ta thấy một kết cấu vòng tròn thật đẹp mắt đã xuất hiện trong thế tương ứng từng cặp hình ảnh với những khổ thơ đã xuất hiện trước đó. Từ “tăm cá vỡ” ở khổ một phát triển thành “thu về chín vỡ”. Từ “tiếng chim gù cuối phố” đã chuyển thành “rối bời tiếng chim”. Từ đôi mắt của người yêu nay tương ứng với “nghìn con mắt lá”. Nếu như ở những khổ thơ trước đã xuất hiện đầy đủ các hình ảnh, âm thanh, màu sắc thì đến khổ này xuất hiện tiếp làn hương (“hương bao trái lạ”) như thể cho đầy đủ cảm nhận của tất cả những giác quan. Và làn hương của trái lạ - trái mùa thu – trái tình yêu ấy cứ làm lòng người xao xuyến rưng rưng mãi, đến độ phải bật thành lời, thành một khát vọng tình yêu: “Chúng mình đã lỡ thương nhau/ Đừng như thu rụng đôi màu lá thu

Người phương Tây gọi mùa thu là mùa lá rụng, mùa của những chiếc lá lìa cành. Những sắc vàng sẽ nhuộm dần những tàn phai để rồi chia đôi hai nửa, khác biệt với những chiếc lá xanh còn sót lại. Thi sĩ ước nguyện đừng bao giờ có sự chia lìa ấy bởi lứa đôi yêu nhau phải là một sự thống nhất, hòa hợp nguyên vẹn như thể làn hương duy nhất, thanh âm duy nhất, sắc lá duy nhất. Giọng thơ nồng nàn mà vẫn kín đáo bởi tác giả dùng chữ “thương” chứ không dùng chữ “yêu”. Chữ “lỡ” đi trước cho ta cảm giác tình yêu đến lúc nào chẳng hay, nhẹ nhàng mà cũng quá đỗi bất ngờ; nhưng vô cùng tự nhiên như thể một tất yếu.

Từ đầu đến cuối thi phẩm là lời ngỏ của chàng trai. Đất trời mùa thu và tình yêu của lòng người dần được bày tỏ, thổ lộ, đi từ xa về gần. Mùa thu từ chỗ như mới đến đã dâng lên đến đỉnh điểm nồng nàn nhất: “chín vỡ”. Dường như cô gái cũng đã nghe thấy được những tỏ bày rất đỗi chân thành này, để tình yêu của chàng trai không phải là mối tình của một kẻ đơn phương. Ta thầm mong sao đôi lứa ấy sẽ đi đến tận cùng của một tròn đầy: “Đừng như thu rụng đôi màu lá thu”./.

Bài liên quan
  • Người tiên phong xã hội hóa nghệ thuật múa
    “Tôi sẽ là nhà đầu tư, là đạo diễn, biên đạo, là thiết kế phục trang, sân khấu, là nhân viên ánh sáng, người phục vụ diễn viên, là người đánh máy, đi chạy từng thủ tục…
(0) Bình luận
  • Thêm một nỗi niềm cho Tây Bắc
    Trước khi đọc “Ta còn em Tây Bắc” của Nguyễn Việt Chiến, tôi tự hỏi: đây là bài thơ viết về điều còn lại của “ta” hay là bài thơ ngợi ca Tây Bắc? Nhưng có lẽ, bài thơ không đơn thuần gợi mở chừng ấy cách nghĩ.
  • Giao hưởng Điện Biên - thành tựu mới của nhà thơ Hữu Thỉnh
    Chiến thắng Điện Biên là chiến thắng vĩ đại “lừng lẫy Điện Biên chấn động địa cầu” (Tố Hữu), làm rạng danh nước Việt trên thế giới “Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Nguyễn Đình Thi). Ngày 7/5/1954, lá cờ Quyết chiến Quyết thắng tung bay trên nóc hầm tướng De Castriest, ngày 12/5 Bác Hồ đã có bài thơ dài đăng trên báo Nhân Dân: “Quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ”. Rồi sau đó, Tố Hữu có bài thơ nổi tiếng “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”. Bên cạnh những tác phẩm thơ, Điện Biên còn được nhắc đến trong nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết, các cuốn sách hồi ký, biên khảo…
  • Thiên anh hùng ca Điện Biên Phủ: Nguồn cảm hứng sáng tạo lớn của văn học nghệ thuật
    Chiến thắng Điện Biên Phủ “là một mốc son chói lọi bằng vàng của lịch sử”. Góp vào chiến công vang dội ấy không thể không nhắc đến các văn nghệ sĩ - những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, tư tưởng. Nhìn lại thắng lợi vẻ vang của cuộc chiến tranh toàn dân này từ điểm nhìn 70 năm sau chiến thắng, có thể thấy rõ dấu ấn của văn học nghệ thuật viết về đề tài Điện Biên Phủ trải đều trên khắp các loại hình văn học nghệ thuật, từ văn chương cho đến âm nhạc, mỹ thuật, nhiếp ảnh, sân khấu, kiến trúc, điện ảnh…
  • Thơ viết về chiến thắng Điện Biên Phủ: Nối dài âm hưởng bản hợp xướng anh hùng ca
    Bảy mươi năm qua, thơ về sự kiện Đại thắng Điện Biên Phủ có nhiều bài, được công bố trên báo, tạp chí, sách liên tiếp vào các năm 1954, 1955, 1956… sau đó được in chụm vào những dịp kỷ niệm năm chẵn: 1964, 1974, 1984, 1994, 2004, 2014 và năm nay bảy mươi năm - 2024.
  • Tiếp nối mạch nguồn, tạo sự bứt phá
    Giá trị VHNT Hà Nội - Huế - Thành phố Hồ Chí Minh là một bộ phận nền tảng quan trọng, mang ý nghĩa văn hóa, xã hội trong tiến trình phát triển của đất nước. Điều này được thể hiện rõ nét trên các lĩnh lực: văn học, văn nghệ dân gian, âm nhạc, mỹ thuật, nhiếp ảnh, sân khấu, điện ảnh, kiến trúc, múa. Nhìn lại chặng đường gần 50 năm kể từ ngày thống nhất đất nước của VHNT 3 thành phố, có thể thấy rõ những thành tựu và cả những mặt hạn chế tồn tại cần phải thay đổi để tiếp nối mạch nguồn, tạo sự bứt phá.
  • Nhà văn Đức Anh: “Viết văn hay viết phê bình đều cần phải có đầy năng lượng…”
    Nhà văn Đức Anh Kostroma (sinh năm 1993, tại Nga) từng “chào sân” với các tác phẩm ấn tượng như “Thiên thần mù sương”, “Tường lửa”, “Đảo bạo bệnh”. Hành trình sáng tạo đầy bản lĩnh của anh đã nhận được sự đánh giá cao của giới chuyên môn và ghi được dấu ấn mạnh mẽ trong lòng bạn đọc. Giải thưởng “Tác giả trẻ” năm 2023 của Hội Nhà văn Việt Nam đã gọi tên anh cùng với tiểu thuyết “Nhân sinh kép: Sống hai cuộc đời”, bởi đã dám dấn thân thể hiện thế giới quan của “người đi khai phá nét kiêu sa” trong cuộc sống.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Xúc động những câu chuyện thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế
    Chủ tịch Hồ Chí Minh và gia đình từng sinh sống, lao động, học tập và tham gia các hoạt động yêu nước ở Thừa Thiên Huế trong thời gian từ 1895 - 1901 và 1906 - 1909.
  • Tái hiện “một thời hoa lửa” của Thanh niên xung phong
    Tối 18/5, tại khu vực sân khấu ngoài trời thị xã Sơn Tây, đêm thi thứ 5 “Liên hoan tiếng hát Cựu Thanh niên xung phong Hà Nội năm 2024” (cụm số 3) được tổ chức với sự tham gia của 6 đơn vị và hàng chục tiết mục đặc sắc, được dàn dựng công phu tái hiện chân thực một thời gian khổ, hy sinh nhưng rất đỗi hào hùng của các thế hệ Thanh niên xung phong (TNXP) Việt Nam.
  • Xuất bản cuốn sách "Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi"
    Nhân kỷ niệm 134 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2024), NXB Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách "Văn hóa phải soi đường cho quốc dân" đi nhằm tri ân, ghi nhớ những đóng góp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam; đồng thời khẳng định, vai trò của tư tưởng văn hoá Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị to lớn, định hướng cho công cuộc xây dựng nền văn hoá Việt Nam hiện nay.
  • Phát động bình chọn “Những bản hùng ca của đất nước”
    Với chủ đề "Những bản hùng ca đất nước", cuộc bình chọn 50 tác phẩm văn học và nghệ thuật biểu diễn Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất chính thức được phát động ngày 18/5 tại Hà Nội.
  • Khánh thành công trình Tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh và bức Phù điêu Bác Hồ với Công an Thủ đô
    Nhân dịp kỷ niệm 60 năm Ngày Bác Hồ đến thăm, chúc Tết Công an TP Hà Nội và 134 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 19/5, Công an TP Hà Nội trang trọng tổ chức Lễ khánh thành công trình "Tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh và bức Phù điêu Bác Hồ với Công an Thủ đô".
Đừng bỏ lỡ
Khúc tình thu – một khát khao giao cảm
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO