Lý luận - phê bình

Một dòng chảy nối liền quá khứ, hiện tại và tương lai

TS. Đỗ Anh Vũ 16/08/2023 05:51

Nhận định về diện mạo nền văn học của mỗi dân tộc, đứng về đại thể có thể chia làm hai khu vực lớn: văn học dân gian và văn học thành văn. Hai dòng chảy này vừa phát triển song song vừa tương hỗ cho nhau, mỗi dòng chảy mang trong mình những đặc điểm, phong cách riêng biệt.

mot-dong-chay(1).png

Từ trước đến nay, khi bàn về văn học sử, nhiều người nghĩ văn học dân gian đã được đóng khung gọn ghẽ trong các tuyển tập truyện cổ, câu đố, trong các cuốn từ điển thành ngữ tục ngữ, ca dao. Nhưng thực ra, văn học dân gian vẫn không ngừng phát triển trong suốt hơn hai mươi thế kỷ qua cùng văn học thành văn và ở mỗi chặng đường đều để lại những dấu ấn riêng biệt. Đó là lí do để PGS.TS. Trần Thị Trâm cho ra đời chuyên luận với tên gọi: “Văn học dân gian Việt Nam sau 1986” (Nxb Văn học, 2022).

Chuyên luận được chia làm hai phần. Phần I là phần khảo cứu, gồm hai chương lớn: Đặc điểm phát triển của văn học dân gian Việt Nam sau 1986Sự hóa thân của văn học dân gian trong các hình thức văn hóa dân tộc. Phần II sưu tầm, tuyển chọn một số tác phẩm văn học dân gian tiêu biểu trong giai đoạn từ 1986 trở lại đây, bao gồm ba thể loại chính là thành ngữ tục ngữ, ca dao và truyện cười, trong đó có phân định rõ về các tác phẩm văn học dân gian ra đời từ 2020 trở lại đây, gắn với đại dịch Covid-19.

Ở phần khảo cứu, tác giả Trần Thị Trâm đã chỉ ra rằng, có thể phân loại văn học dân gian Việt Nam thành ba giai đoạn lớn là văn học dân gian cổ truyền (từ 1945 trở về trước), văn học dân gian 30 năm kháng chiến (1945 - 1975) và văn học dân gian tính từ Đổi Mới 1986 trở đi. Theo tác giả, văn học dân gian tự xây dựng một trường đặc điểm thẩm mỹ riêng, có một quan niệm nghệ thuật riêng về cái đẹp. Theo đó, trong cái nhìn dân gian, cái đẹp thường mang một vẻ đẹp giản dị và hài hòa trọn vẹn cả hình thức cũng như nội dung: “Người xinh cái bóng cũng xinh”. Trong trường hợp cần chọn lấy một thì nội dung bao giờ cũng quan trọng hơn hình thức: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, “Cái nết đánh chết cái đẹp”.

Nền văn học dân gian hiện đại, nhất là tính từ 1986 trở đi, có những đặc điểm riêng, khác với các giai đoạn trước đó. Cụ thể, có sự khác biệt về tác giả và công chúng tiếp nhận. Trình độ của người viết lẫn người thưởng thức ngày càng tăng cao, nhờ đó văn học dân gian phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, gia tăng được chất triết luận, trí tuệ và hài hước. Văn học dân gian giai đoạn sau 1986 còn có sự hỗ trợ mạnh mẽ của internet và mạng xã hội, giúp cho các tác phẩm dễ dàng đến với công chúng, có được sự lan tỏa mạnh mẽ cũng như có được những trau chuốt, chỉnh sửa kịp thời để chất lượng được gia tăng.

Sự khác biệt tiếp theo của văn học dân gian giai đoạn sau 1986 là sự thu hẹp nội dung phản ánh. Nếu như văn học dân gian cổ truyền là cuốn bách khoa toàn thư của dân tộc thì văn học dân gian thời hiện đại chỉ tập trung hướng tới những vấn đề nhạy cảm, phanh phui những điều khuất tất trong đời sống xã hội, được thể hiện qua góc nhìn hài hước: “Mỗi tuần một cuộc giao ban/ Lại bàn những chuyện đã bàn hôm qua, Thanh tra thanh mẹ thanh gì/ Cứ có phong bì là nó thanh kiu”. Phong cách nhại/ giải thiêng được sử dụng nhiều trong văn học dân gian đương đại. Nếu như trước đây, trong dân gian có câu “Trẻ xông pha già gương mẫu” thì bây giờ câu tục ngữ này có biến thể là” Trẻ không chơi, già đổ đốn”. Tương tự như thế, có thể kể đến hàng loạt các biến thể như: “Một con ngựa đau cả tàu bỏ… chạy”, “Râu tôm nấu với ruột bầu/ Chồng ăn nhổ toẹt lầu bầu kêu điên”, “Đất lành chim đậu/ Đất nhậu chim thành mồi”...

Nhiều tác phẩm kinh điển cũng được/ bị nhại, đôi khi chỉ mang tính chất đùa vui, chẳng hạn nhại Truyện Kiều: “Trăm năm trong cõi người ta/ Ai ai cũng phải thở ra hít vào”. Cũng trong giai đoạn văn học dân gian hiện đại, xuất hiện nhiều nhà thơ sáng tác theo phong cách dân gian như Bút Tre Đặng Văn Đăng, Nguyễn Bảo Sinh, Văn Thùy… Nhiều câu thơ của họ được nhân dân nồng nhiệt đón nhận và coi đó là ca dao: “Anh đi đồng ruộng lắng nghe/ Lúa mừng phân bắc khoai che mảnh vườn”, “Ghế thì ít, đít thì nhiều/ Cho nên đấu đá là điều tất nhiên”, “Đái thì đứng ở ngoài đường/ Hôn nhau lại đứng sau tường để che”…

Bắt đầu từ cuối 2019, khi đại dịch Covid xuất hiện trên thế giới và lây lan về Việt Nam, ảnh hưởng to lớn tới toàn bộ đời sống xã hội, văn học dân gian lập tức xuất hiện kịp thời để phản ánh, sáng tác, vừa mang tính chất tuyên truyền phổ biến giáo dục, góp phần giúp người dân chống lại bệnh dịch, vừa tạo ra tiếng cười lạc quan để động viên con người vượt lên hoàn cảnh khó khăn: “Bao người đang sống yên lành/ Bỗng đùng một cái hóa thành ép không (F0)”, “Ngày xưa sợ nhất sấm to/ Bây giờ sợ nhất người ho cạnh mình”, “Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép không (F0)”.

Cái nhìn hài hước, thông minh của dân gian đã làm nhẹ nhàng cả những chuyện nghiêm trọng nhất, khiến ai ai cũng có thể bật lên tiếng cười sảng khoái. Chẳng hạn dân gian đã chiết tự chữ Covid như sau trong mùa đại dịch: “C = cắt giảm chi tiêu. O = ổn định cuộc sống, V = vệ sinh sạch sẽ, I = ít tụ tập, D = đầu tư sức khỏe, trí tuệ”.

Có thể nói, văn học dân gian thời Covid vừa mang tính thời sự cao, vừa có giá trị cung cấp kiến thức, vừa góp phần nâng đỡ tinh thần, ổn định xã hội. Không chỉ có tục ngữ ca dao thời Covid, nhiều truyện cười cũng được ra đời, ngắn gọn mà dí dỏm, dễ thương. Chẳng hạn: “Thấy vợ vừa rửa bát vừa khóc nức nở, chồng chạy tới hỏi: - Sao mà em khóc ghê thế? – Em bị dính Covid rồi. – Sao em biết? – Em vừa úp bát mì ăn mà không cảm thấy mùi vị gì. Chồng nhìn quanh và nói: - Gói gia vị vẫn còn đây mà. - Ối! Em quên. Thảo nào…”.

Trong phần II của chuyên luận, riêng phần thu thập các tác phẩm văn học dân gian tiêu biểu thời Covid, tác giả Trần Thị Trâm đã gửi tới độc giả 60 câu thành ngữ tục ngữ, 150 câu ca dao và 40 truyện cười. Còn trong giai đoạn văn học dân gian từ 1986 đến 2019, tác giả gửi tới bạn đọc 500 câu thành ngữ tục ngữ, 500 câu ca dao và 500 truyện cười tiêu biểu.

Cũng trong chuyên luận này, PGS.TS. Trần Thị Trâm cũng khẳng định rằng, văn học dân gian còn tạo ra một giá trị to lớn là hóa thân vào nhiều tác phẩm báo chí cũng như nhiều loại hình nghệ thuật khác như âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, hội họa… Có thể kể đến các biểu hiện tiêu biểu như cách đặt tên tác phẩm, cách đưa thành ngữ tục ngữ ca dao vào tác phẩm, cách khai thác và chọn lựa đề tài, cách dùng văn học dân gian làm câu hỏi trong các game show truyền hình…

Tóm lại, với chuyên luận “Văn học dân gian Việt Nam sau 1986” gần 450 trang, PGS.TS Trần Thị Trâm đã mang đến cho người đọc một bức tranh toàn cảnh đầy thú vị về sự phát triển của dòng văn học này trong giai đoạn hiện đại và đương đại, qua đó khẳng định sức sống mãnh liệt của văn học dân gian người Việt. Rõ ràng văn học dân gian không chỉ thuộc về quá khứ mà nó còn là câu chuyện của hiện tại và mai sau. Sự đồng hành của văn học dân gian bên cạnh văn học thành văn mang đến một bức tranh đa sắc màu cho nền văn học dân tộc, khẳng định được những đóng góp quý báu, những giá trị to lớn của mình trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước./.

Bài liên quan
  • Thi nhân xứ Đoài trong không gian văn hóa kinh kỳ
    Xứ Đoài thuộc không gian địa lý Sơn Tây, là vùng trọng yếu của Thăng Long xưa - Hà Nội nay và cũng là vùng “địa linh nhân kiệt” với nhiều danh nhân kỳ hùng, mang nhiều dấu ấn văn hóa đặc sắc, có truyền thống lâu đời.
(0) Bình luận
  • Phát huy vai trò của văn nghệ sĩ Thủ đô trong phát triển công nghiệp văn hóa
    Hà Nội - Thủ đô tự nhiên của lưu vực sông Hồng, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước từ ngàn xưa đã là nơi hội tụ và đào luyện nhân tài. Phần lớn danh nhân Việt Nam từng sống, làm việc, sáng tạo ở Thăng Long - Hà Nội, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc. Ở mảnh đất hội tụ tinh hoa văn hóa bốn phương ấy, con người Thăng Long mang trong mình nét tài hoa, đa tài, đa nghệ, thấm đẫm bản sắc trí tuệ và tinh thần sáng tạo. Trong đó, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ - những người sinh ra, lớn lên hoặc gắn bó với Hà Nội đã góp phần tạo nên diện mạo văn hóa, nghệ thuật Thủ đô bằng nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, khẳng định sức sống trường tồn của văn hóa nghìn năm. Họ chính là nguồn lực đặc biệt không thể thiếu trong hành trình phát triển công nghiệp văn hóa của Hà Nội hôm nay.
  • Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong bối cảnh hội nhập
    Xây dựng hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết của các cấp, các ngành mà còn là sứ mệnh đặc biệt của đội ngũ văn nghệ sĩ Thủ đô. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, việc xác định rõ những trọng tâm trong xây dựng hệ giá trị văn hóa là hết sức cần thiết.
  • Những lưu dấu văn hóa về Hà Nội qua ngôn từ văn chương
    Ngay từ nền văn học Việt Nam trung đại, những trước tác về miền đất thiêng (đất thánh) Đông Đô - Thăng Long - Hà Nội đã được ghi khắc trong sử văn: “Chiếu dời đô” (thế kỷ XI) của Lý Công Uẩn, “Thượng kinh ký sự” (thế kỷ XVIII) của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, “Vũ trung tùy bút” (thế kỷ XIX) của Phạm Đình Hổ, “Long Thành cầm giả ca” (thế kỷ XIX) của Nguyễn Du, “Thăng Long thành hoài cổ” (thế kỷ XIX) của Bà Huyện Thanh Quan.
  • Hai thể thơ mới namkau và 1-2-3 trong lịch sử phát triển của các thể thơ dân tộc
    Khoảng mươi năm gần đây, trên thi đàn Việt xuất hiện hai thể thơ mới: namkau và 1-2-3. Là sản phẩm của thế kỷ công nghệ số, những thể thơ này còn đang ở thời kỳ phôi thai trứng nước.
  • Văn Cao, mùa bình thường...
    Văn Cao là một người tài hoa. Gọi ông là nhạc sĩ, thi sĩ hay họa sĩ đều được. Song tôi nghĩ, gọi ông là nhạc sĩ vẫn chuẩn xác hơn cả, bởi đó là điểm khởi đầu cũng là lĩnh vực ông bộc lộ tài năng nhất và cũng thành công nhất. Nhưng hãy khoan bàn về điều này, tôi muốn phác họa đôi nét về con người Văn Cao qua ấn tượng của mình sau hai lần gặp gỡ...
  • GS.TS Kiều Thu Hoạch: Người cần mẫn nghiên cứu văn hóa dân gian
    GS.TS Kiều Thu Hoạch năm nay bước sang tuổi 92. Đi qua hành trình gần trọn một thế kỷ, ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị. Đó là sự kết tinh trí tuệ của một học giả Hán Nôm uyên bác cùng hành trình trải nghiệm học thuật và cả sự tiếp xúc với các bậc túc nho nhiều thế hệ. Những công trình ấy đã mở ra nhiều hướng tiếp cận khả thi trong nghiên cứu lịch sử, văn hóa Việt Nam.
Nổi bật Tạp chí Người Hà Nội
  • Hà Nội tăng mức chi để khuyến khích đội ngũ văn nghệ sỹ Thủ đô tiếp tục cống hiến, sáng tạo nghệ thuật
    Thực hiện khoản 5 và 6 Điều 21 của Luật Thủ đô 2024, tại kỳ họp thứ 28, HĐND Thành phố Hà Nội khóa XVI đã thông qua Nghị quyết Quy định một số nội dung, mức chi trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật của thành phố Hà Nội. Nghị quyết sẽ tạo động lực để văn nghệ sỹ Thủ đô góp sức để phát triển văn hóa, nghệ thuật và công nghiệp văn hóa của Thủ đô Hà Nội trong kỷ nguyên vươn mình.
  • “Giấc cỏ” - nỗi niềm chung cõi nhân gian
    Nhắc đến Giang Đăng, nhiều người thường nghĩ ngay đến một giọng thơ tình giàu cảm xúc. Tôi cũng đôi lần nghe nhắc tên chị trong Câu lạc bộ Thơ Đất Việt hay bắt gặp trên pano Ngày thơ Nguyên tiêu. Nhưng chỉ đến khi cầm trên tay “Nhặt mùa” và “Gỡ từ ngực cỏ”, tôi mới nhận ra: vẻ đẹp của thơ Giang Đăng không chỉ nằm ở sự mượt mà của ngôn từ mà còn ở chiều sâu triết luận, ở tâm thế, cảm xúc và những trải nghiệm đa tầng trước đời sống.
  • Hà Nội - “dòng sông nghĩa tình” cuộn chảy
    Hà Nội - trái tim của đất nước, đã và đang lan tỏa thông điệp “vì cả nước, cùng cả nước” bởi Thủ đô sẵn sàng chia sẻ, hỗ trợ đồng bào lũ lụt miền Trung, Tây Nguyên với tất cả khả năng. Hành trình hỗ trợ đồng bào vùng lũ của Hà Nội không chỉ là sự chi viện vật chất đơn thuần, mà còn là bản giao hưởng xúc động về tình người, về trách nhiệm của Thủ đô đối với đồng bào trên mọi miền Tổ quốc.
  • Đồng chí Vũ Minh Tuấn giữ chức Phó Trưởng ban Tuyên giáo và Dân vận Thành ủy Hà Nội
    Sáng 28/11, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Hà Nội Nguyễn Văn Phong chủ trì lễ công bố và trao Quyết định của Ban Thường vụ Thành ủy về công tác cán bộ tại Ban Tuyên giáo và Dân vận Thành ủy Hà Nội.
  • Đồng chí Vũ Đại Thắng giữ chức Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND TP. Hà Nội
    Chiều 28/11, tại Kỳ họp lần thứ hai mươi tám, HĐND thành phố Hà Nội khoá XVI nhiệm kỳ 2021-2016, đồng chí Vũ Đại Thắng, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành uỷ được bầu giữ chức vụ Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội.
Đừng bỏ lỡ
Một dòng chảy nối liền quá khứ, hiện tại và tương lai
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO